Văn minh Đông Sơn và những đường nét sơ sử
phía Bắc
Như đã nói, vùng phía bắc Việt Nam thấy tộc Hoa Hạ tràn xuống
phía nam nên có ưu thế tiếp cận văn tự Hán sớm và khiến cho lịch sử nơi
này sáng tỏ trước tiên.
Các tên chỉ về lãnh thổ, tập đoàn, lãnh tụ mà bây giờ người ta tranh
cãi để xác định về nguồn gốc dân tộc, diễn giải về lịch sử nơi này đều bắt
đầu bằng dấu vết nơi các thư tịch Trung Quốc. Sử kí
Tư Mã Thiên (viết
khoảng 104-91 tCn.), Hán thư
(viết khoảng 58-79) có các tên Lạc, Việt với
những tập họp nhiều dạng hình của chúng: Lạc Việt, Âu Lạc, Tây Âu Lạc,
Tây Âu, Đông Âu… Cựu Đường thư
(viết khoảng 924-946), phần Địa lí
chí dẫn Nam Việt chí
của Thẩm Hoài Viễn (viết khoảng 453-456) có tên
Hùng Vương, Hùng hầu, Hùng điền. Còn Giao Châu ngoại vực kí gần với
thời
Nam Việt chí thì được Thuỷ Kinh chú
(515) nhắc đến Lạc Vương, Lạc
hầu, Lạc tướng, Lạc điền, Lạc dân. Có điều rắc rối nan giải là dù ở các sách
xưa nhất như Sử kí, Hán thư,
các bản văn hiện tồn cũng trải qua nhiều sửa
đổi, nhiều chú giải của người sau qua những biến đổi ngữ âm, do sự mù mờ
văn tự, cách ngắt chữ ngắt câu… khiến cho vấn đề xác định lại tuỳ thuộc
vào tâm tình sử gia hơn lúc nào hết. Ví dụ trong khi Giao Châu ngoại vực
kí
kể ra cả một hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế thông suốt trên dưới thì
Quảng Châu kí
(420-436) lại không nhắc đến Lạc Vương. Còn cụm từ “tây
âu lạc” chẳng hiểu có gốc là một chỉ danh khác-Hán như thế nào nhưng bây
giờ có thể xếp thành: Tây Âu Lạc (một “nước”), (phía) tây (là) Âu Lạc, Tây
Âu (và) Lạc (Việt) rồi từ đó vị trí các lãnh thổ, tập đoàn liên hệ có thể co
dãn theo tinh thần yêu nước của các sử gia khiến cho nước Việt cổ xưa mở
rộng ra không những chỉ kình địch với thủ lãnh địa phương là Triệu Đà mà
còn tranh chiến với cả trung ương Tần Hán nữa. Các tên Việt, Lạc nhìn
theo lối viết chữ quốc ngữ ngày nay được tranh luận nhiều để có người thấy
có địa điểm L-Ạ-C ở vùng xuất phát của tộc Hoa Hạ, và không kể đến gốc