Địa điểm Samrong Sen gần Biển Hồ thuộc vào thời đá mới + đồng,
cư dân như người tại chỗ bây giờ. Có lẽ Nam Bộ ngày nay của thiên niên kỉ
trước Công nguyên phần lớn còn thuộc cư dân Austronesian đồ đá. Đàn đá,
một đặc trưng văn hoá Tây Nguyên ngày nay đã được tìm thấy trong tầng
văn hoá khảo cổ ở Bình Đa (Đồng Nai). Tuy nhiên ảnh hưởng đồng thau
cũng đã tràn tới theo ngả Thái Lan nơi có các nguồn mỏ đồng được khai
thác cung cấp đến các vùng thật xa. Ở Dốc Chùa bên bờ sông Đồng Nai
người ta đã đào được các khuôn đúc rìu đồng với số lượng nhiều nhất Việt
Nam chưa kể số lượng khuôn đúc của dân vùng Bưng Bạc (Bà Rịa Vũng
Tàu) sống trên nhà sàn. Nên mở ngoặc để nói về các qua đồng có văn khắc
dấu chấm và chữ S rằn rện, thấy được ở Nam Bộ (Dốc Chùa 13 cái, Long
Giao 18 cái – tổng cộng phỏng đoán là đến 70 cái) và một hai đơn vị ở
Bình Thuận, được nhà khảo cổ Việt Nam cho là thuộc thời Chiến Quốc và
học giả thế giới bắt chước theo mà không lưu ý rằng các đạo quân Trần
Thượng Xuyên (Minh, thế kỉ XVII) hay Lí Tài (Thanh, cuối thế kỉ XVIII)
trong vùng có thể sử dụng các vũ khí tượng trưng (chất đồng ở đây mềm
giống như là của đồ lỗ bộ) mang đặc điểm Hán tộc như thế. Lập luận càng
vững chắc hơn khi trong năm 2006 một người Chu Ru đã phát hiện một
kho qua đồng khác lên đến 6, 700 đơn vị ở Cẩm Mĩ, cách Long Giao
khoảng 4km. Qua lần này lại thếp vàng chứng tỏ không phải là để chiến
đấu, và toán quân Trần Thượng Xuyên được kể là chủ nhân hẳn hợp hơn là
Lí Tài.
Những vùng sình lầy cửa sông Đồng Nai cũng không vắng người.
Lưu vực miền hạ Cửu Long tuy là lớn nhưng không phải chỉ mới tạo thành
gần đây. Mũi Cà Mau đã thấy rõ ràng trên các bản đồ châu Âu xưa nhất.
Các không ảnh cho thấy vùng Hậu Giang có những đường nước ngang dọc
hoặc mang công dụng tưới tiêu, hoặc là đường thuỷ lưu thông. Cho nên các
nhà khảo cổ Việt Nam bây giờ đào xới lớp đất dưới Óc Eo lấy mẫu C14 đo
đạc thấy có dấu vết cư trú nhà sàn và sinh hoạt dân bản xứ trước khi ảnh
hưởng Ấn Độ tràn tới.