lằn, hai con đẹp nhất, to, có màu xám tinh tế gần như màu lam, bị giết chết
ngay tại chỗ.
- Tại sao các con lại làm như vậy? - cha xứ bất bình thốt lên.
Không ai trả lời.
- Tại sao? Thật là hèn!
- Nhưng nó cũng như rắn mà, nó cắn, - một cậu bé có gương mặt tái
xanh, nhớn nhác, với cái mũi dài nhọn, nói.
- Thật là ngớ ngẩn! Thằn lằn lành lắm.
- A! Chúng con không biết, thưa Cha. - Cậu bé đáp bằng cái giọng du
côn của mình, với vẻ ngây thơ giả vờ không lừa được linh mục.
Nhưng ông nghĩ đây không phải chỗ và cũng không phải lúc để quở
trách bọn trẻ về chuyện này; ông chỉ khẽ nghiêng đầu như thể hài lòng về
câu trả lời nhưng cũng nói thêm:
- Bây giờ thì các con đã biết rồi đấy.
Ông bảo lũ trẻ xếp hàng lại để đi theo ông. Cho tới trước lúc này ông vẫn
để chúng đi theo ý chúng, nhưng đột nhiên ông nghĩ là một vài đứa có thể
tính tới chuyện bỏ trốn. Lũ trẻ vâng lệnh ông một cách thật hoàn hảo, thật
máy móc, chắc chắn chúng đã thành thạo lắm với những hồi còi, với việc
xếp hàng, với sự thuần phục, với việc im lặng bắt buộc, đến nỗi ông cảm
thấy tim mình thắt ỉại. Ông lướt nhìn những gương mặt đột ngột trở nên
buồn tẻ, lờ đờ, thực sự kín bưng như một ngôi nhà có thể kín, cửa đóng
then cài, tâm hồn khép lại, hoặc không có hoặc đã chết. Ông nói:
- Chúng ta phải nhanh lên nếu muốn tìm được một chỗ trú ẩn ban đêm,
nhưng ngay khi cha biết chúng ta sẽ ngủ ở đâu và ngay sau khi chúng ta ăn
tối (vì các con sắp bắt đầu đói rồi đấy!) thì chúng ta có thể tổ chức lửa trại
và ở ngoài trời chừng nào mà các con còn thích.
Ông bước đi giữa bọn chúng, nói chuyện với chúng về những đứa trẻ của
ông ở Auvergne, về chuyện trượt tuyết, về những chuyến leo núi, cố gắng
gây hứng thú cho lũ trẻ, làm cho chúng trở nên gần gũi với ông. Cố gắng vô
ích. Bọn chúng dường như thậm chí chẳng nghe ông; ông hiểu rằng tất cả
những lời mà người ta nói với chúng, những lời khích lệ, khiển trách, dạy