thoải mái: thứ ngôn ngữ này, bởi chất thơ của nó, bởi sức mạnh của nó, phù
hợp với một số tâm trạng của ông), nhưng cái khẩu hiệu trên vẫn ở lại trong
ông và ông luôn trung thành với nó.
Ông quỳ một chân nhỏm dậy và nhìn ra xung quanh với ánh mắt thâm
trầm và buồn bã, bao quát mọi thứ: dòng sông Seine phía dưới các ô cửa sổ,
cái đường gờ tuyệt đẹp phân cách hai phòng khách, cái lò sưởi với những
thanh gác cửa kiểu cổ và những trần nhà cao bàng bạc một thứ ánh sáng
tinh khiết có màu xanh lá cây và trong veo như nước vì được rọi sáng từ
phía ban công qua những tấm mành cửa bằng vải màu hạnh nhân.
Chốc chốc chuông điện thoại lại réo vang. Ở Paris vẫn còn những kẻ do
dự, những kẻ điên khùng sợ ra đi, họ hy vọng vào phép màu nào không biết
nữa. Chậm chạp, thở dài, ông Langelet đưa ống nghe lên tai. Ông nói bằng
giọng mũi và bình thản, với cái vẻ dửng dưng, cái vẻ mỉa mai mà các bạn
của ông - một nhóm nhỏ rất khép kín, rất Paris - đã gọi là “một thứ giọng
không thể bắt chước được”. Phải, ông đã quyết định ra đi. Không, ông
chẳng sợ gì hết. Người ta chắc sẽ chẳng bảo vệ Paris đâu. Ở những nơi
khác chắc mọi sự cũng thế mà thôi. Nguy hiểm thì hiện hữu khắp nơi
nhưng đâu phải nguy hiểm là cái mà ông trốn chạy. “Tôi đã chứng kiến hai
cuộc chiến tranh rồi,” ông nói. Quả thực ông đã trải qua cuộc chiến tranh
năm 14 ở khu đất thuộc sở hữu của ông tại vùng Normandie vì ông bị bệnh
tim và được miễn mọi nghĩa vụ quân sự.
- Bà bạn thân mến của tôi ơi, tôi đã sáu mươi tuổi rồi, đâu phải cái chết
là điều mà tôi sợ!
- Thế tại sao ông lại ra đi nào?
- Tôi không thể chịu đựng được tình trạng hỗn độn ấy, những cơn hận
thù bùng lên dữ dội ấy, cái quang cảnh ghê tởm ấy của chiến tranh. Tôi sẽ
đi đến một góc bình yên, ở làng quê. Tôi sẽ sống bằng chút ít tiền tôi còn
cho đến khi con người khôn ngoan trở lại.
Một tiếng cười gằn khe khẽ đáp lời ông: ông vốn nổi tiếng là keo kiệt và
thận trọng. Người ta vẫn nói về ông như sau: “Charlie ấy à? Ông ta khâu
các đồng tiền vàng vào trong tất cả quần áo cũ của mình.” Ông nở một nụ