và chiếc máy ghi âm hiệu Dictaphone, hi vọng sự lạc quan tươi trẻ của
chúng sẽ truyền sang tôi.
Tôi đang phát cáu với Andrew. Tôi không thể tập trung. Tôi thậm chí
trông chẳng có điểm nào giống nhà báo cả - quyển sổ gáy lò xo của tôi
trắng tinh tươm. Trong khi chờ đợi, tôi bôi bẩn nó bằng những ghi chép
về một cuộc phỏng vấn tưởng tượng. Những con người làm việc nhà
nước lê bước qua tiền sảnh của trụ sở Bộ Nội vụ trong những đôi giày
đã mòn đế, giữ thăng bằng cốc cà phê sáng trên khay đựng bằng giấy
bồi. Các bà các cô núng nính trong những bộ vest công sở hiệu M&S,
nọng cằm tung tẩy, vòng tay leng keng. Các anh các chú trông ủ rũ như
bị chứng thiếu oxy máu do cà vạt thít chặt lấy cổ. Ai nấy đều còm lưng,
hoặc hối hả, hoặc bồn chồn lo lắng. Họ lôi mình đi như những người dự
báo thời tiết trên truyền hình đang chuẩn bị kéo kì vọng của người xem
về kì nghỉ lễ ngân hàng
Tôi cố gắng tập trung vào bài báo mình muốn viết. Lúc đó, thứ tôi
cần là một bài báo lạc quan, một điều gì đấy tươi sáng và tích cực. Nói
cách khác, một điều gì đấy hoàn toàn khác với những gì Andrew
thường viết trong mục bình luận của anh trên Times. Andrew và tôi suốt
ngày cãi nhau. Bài viết của anh ngày càng âm u ảm đạm. Tôi nghĩ anh
đã thực sự bắt đầu tin rằng nước Anh sắp chìm xuống biển. Tội ác khắp
nơi, trường học thất thế, người nhập cư tràn lan và đạo đức công chúng
xuống cấp. Cứ như tất tần tật mọi thứ đều đang rò rỉ, ngổn ngang và
nhoe nhoét, và tôi ghét điều đó. Giờ thì Charlie đã gần hai tuổi, tôi nghĩ
mình đang nhìn vào tương lai mà con mình sẽ sống, và nhận ra rằng
chửi đổng về nó có thể không phải là chiến lược mang tính xây dựng
nhất. Tại sao anh lúc nào cũng bi quan chán đời như thế? Tôi hỏi
Andrew. Nếu đất nước này quả thật đang đi xuống, thì sao không viết
về những người đang làm gì đấy để khắc phục chuyện đó?
“Thế ư? Như ai nào?”