đường. Tầm hai mươi tuổi, ở trần, rám nắng, mặc mỗi chiếc quần cộc
vải nylon trắng.
“Năm,” Clarissa nói.
“Trên thang điểm mười ư?”
“Trên thang điểm năm, cưng à.”
Tôi bật cười. “Có những hôm tớ chỉ muốn vui vẻ hoán đổi cuộc đời
với cậu đấy, Clar ạ.”
Clarissa quay sang tôi. Tôi chú ý đến dấu hằn mỏng trên mặt kính
nơi cô vừa tựa trán lên. Nó lơ lửng như một đám mây nhẹ màu thịt đỏ
trên ngọn tháp màu xương trắng của Nhà thờ Chúa Spitalfields.
“Ôi, Sarah,” Clarissa thốt lên. “Chúng ta nhún nhường với nhau quá
thành ra người này làm người kia thất vọng.
Cậu là chủ. Đương nhiên tớ sẽ viết bài về người tị nạn cho cậu, nếu
cậu thực sự muốn. Nhưng thực lòng tớ cho rằng cậu không hiểu độc giả
sẽ lướt mắt qua nhanh thế nào đâu. Vấn đề ở đây là, đề tài đó chẳng ảnh
hưởng đến cuộc sống của ai cả.”
Tôi cảm thấy hoa mắt lảo đảo, vội lùi lại một bước từ cửa kính.
“Cậu chỉ cần tìm ra khía cạnh để khai thác,” tôi run rẩy nói.
Clarissa nhìn tôi chăm chú. “Cậu đang đau khổ, Sarah ạ. Cậu suy
nghĩ không được thông suốt. Cậu chưa sẵn sàng để trở lại với công việc
đâu.”
“Cậu muốn công việc của tớ, có phải thế không, Clar?”
Clarissa đỏ bừng mặt. “Cậu đừng nói năng hồ đồ.”
Tôi ngồi xuống mép bàn và lấy ngón cái xoa thái dương.
“Phải, tớ hồ đồ quá. Chúa ơi. Tớ xin lỗi. Dù sao thì, có lẽ cậu nên
làm công việc của tớ. Tớ mất động lực rồi, thật đấy. Tớ chẳng còn thấy
nó có ý nghĩa gì nữa.”