Anh lắc đầu. “Không sao.”
Lawrence chạy vào mê cung đường mòn giữa những cây đỗ quyên.
Tôi đi đến giữa bãi cỏ và bắt đầu gọi tên Charlie lần nữa. Tôi cứ gọi rồi
lại gọi, trong khi đàn vịt e dè bơi trở lại vào vòng nước quen thuộc của
chúng trên hồ, làn gió khiến tôi run rẩy trong chiếc quần jeans ướt
sũng. Lúc đầu tôi gọi tên của Charlie như một âm thanh để con hướng
về, nhưng khi cất giọng lên, tôi nhận ra đã vượt qua một lằn ranh khác,
tôi đang gọi cái tên ấy chỉ để nghe thấy nó, để đảm bảo sự tồn tại liên
tục của nó trên thế gian này. Tôi nhận ra cái tên ấy là tất cả những gì tôi
có.
Giọng tôi yếu đi thành lời thì thầm. Tôi thở ra tên Charlie.
Khi Charlie đến, nó tự đi một mình. Nó chạy lon ton từ dưới một tán
đỗ quyên, người lấm lem đất cát, áo choàng dơi bay phất phới sau lưng.
Tôi chạy đến, dang tay ôm con vào lòng. Tôi dụi mặt vào cổ con và hít
mùi hương của nó, mùi muối mặn của mồ hôi và vị chua loét của đất.
Nước mắt chảy dài trên mặt tôi.
“Charlie,” tôi thì thầm. “Ôi, thế giới của mẹ, tất cả thế giới của mẹ.”
“Mẹ tránh ra nào! Mẹ nghiền nát con rồi!”
“Con đi đâu vậy?”
Charlie xòe tay ra hai bên, trả lời câu hỏi của tôi như thể đó là
chuyện bình thường. “Dĩ nhiên là ở trong hang dơi của con rồi.”
“Ôi, Charlie. Con không nghe mọi người gọi sao? Con không thấy
mọi người đi tìm con sao?”
Charlie nhe răng cười dưới lớp mặt nạ dơi.
“Con nấp mà.”
“Tại sao? Tại sao con không đi ra? Con không thấy mọi người lo
lắng thế nào à?”