lưng, dán mắt xuống làn nước nâu đục ngầu, gào tên Charlie với những
bông súng và đàn vịt uyên ương giật mình ngơ ngác.
Tôi thấy một vật dưới nước, nằm trên lớp bùn đặc quánh của đáy hồ.
Ở dưới nước, giữa những bông súng và biến dạng vì mặt nước gợn
sóng, nó trông như một khuôn mặt trắng bệch. Tôi thò tay xuống nắm
lấy nó. Tôi đưa nó lên trời. Đó là nửa chiếc sọ bị nứt của một con thỏ.
Khi tôi đưa nó lên, làm nước bùn chảy xuống, tôi nhận ra khi nãy điện
thoại còn nằm trong bàn tay dùng để cầm chiếc sọ. Điện thoại của tôi
đã rơi mất, ở đâu đó – cuộc đời tôi đã rơi mất, ở đâu đó – trong rừng
hoặc hồ nước. Tôi đứng trong nước, tay cầm chiếc sọ. Tôi không biết
phải làm gì bây giờ. Tôi nghe tiếng vi vu và nhìn thoắt xuống. Tôi hiểu
rằng gió đang thổi vi vu qua hốc mắt của chiếc sọ, và đó là khi tôi thực
sự bắt đầu thét lên.
Charlie O’Rourke. Bốn tuổi. Batman. Chuyện gì đang xảy ra trong
đầu tôi? Hàm răng trắng bé xíu đều tăm tắp của con. Ánh mắt tập trung
hùng dũng khi con đang chống lại kẻ xấu. Cách con ôm tôi, một lần,
lúc tôi buồn. Cách mà tôi đã chạy đi chạy lại giữa hai thế giới, từ sau
chuyến đi châu Phi, – giữa Andrew và Lawrence, giữa Ong Nhỏ và
công việc – chạy khắp nơi trừ thế giới mà tôi thuộc về. Tại sao tôi chưa
bao giờ chạy đến Charlie? Tôi gào lên với chính mình. Con trai tôi, cậu
bé kháu khỉnh của tôi. Mất tích, mất tích. Nó đã biến mất cũng như nó
đã sống, trong lúc tôi nhìn về hướng khác. Về những tương lai ích kỉ
của riêng tôi. Tôi nhìn vào những ngày tháng trống trải trước mắt mình,
và chúng không có điểm kết thúc.
Rồi tôi cảm thấy hai bàn tay đặt trên vai mình. Đó là Lawrence. Anh
đưa tôi ra khỏi hồ và dìu tôi đến đứng trên bờ. Tôi run cầm cập trong
gió.
“Bây giờ chúng ta phải phối hợp với nhau,” anh nói. “Sarah, em ở
đây và tiếp tục gọi Charlie, để nó biết nơi nào phải quay về nếu đang đi
lạc. Anh sẽ đi nhờ mọi người trong vườn thực vật tìm giúp, và anh cũng