người tiêu dùng gánh chịu như trước, lợi nhuận và thị phần của các công ty
này sụt giảm và các cổ đông bắt đầu đòi tăng giá trị công ty. Một số công ty
tìm cách tăng năng suất bằng cách cải tiến và tự động hóa. Các công ty khác
chủ yếu dùng cách sa thải hàng loạt công nhân, chống thành lập công đoàn,
và sau đó cũng chuyển sản xuất ra nước ngoài. Những giám đốc công ty
nào không thích nghi được sẽ bị những kẻ chuyên mua cổ phiếu để nắm
quyền kiểm soát công ty hay những nghệ sỹ chuyên mua lại công ty bằng
vay nợ tấn công - hai nhóm người này sẽ thay đổi công ty và không quan
tâm đến đời sống nhân viên sẽ hoàn toàn bị đảo lộn hay cộng đồng bộ chia
rẽ. Cách này hay cách khác, các công ty Mỹ ngày càng nghèo hơn, khó
khăn hơn - và các công nhân đây chuyền lắp ráp kiểu cũ và những thị trấn
như Galesburg là nạn nhân chính của quá trình chuyển đổi này.
Không chỉ có khu vực tư nhân phải điều chỉnh cho phù hợp với môi
trường mới. Kỳ bầu cử mà Ronald Reagan giành thắng lợi đã cho thấy
người dân cũng mong muốn chính phủ phải thay đổi. Reagan có xu hướng
thổi phồng quá mức quy mô của nhà nước phúc lợi sau hai mươi lăm năm
phát triển trước đó. Thực ra khi đạt tới mức cao nhất, tỷ lệ ngân sách liên
bang so với quy mô nền kinh tế Mỹ vẫn thấp hơn con số tương ứng của các
nước Tây Âu, ngay cả khi đã tính cả ngân sách khổng lồ nước Mỹ dành cho
quốc phòng. Tuy nhiên, cuộc cách mạng bảo thủ do Reagan khởi xướng
cũng được nhiều người ủng hộ vì quan điểm của ông - rằng nhà nước phúc
lợi tự do đã trở nên tự mãn và quan liêu quá mức, các nhà hoạch định chính
sách Dân chủ bị ám ảnh bởi việc cắt nhỏ miếng bánh nền kinh tế hơn là làm
cho nó lớn lên - rõ ràng có một phần sự thật. Cũng như rất nhiều các giám
đốc công ty vì không bị cạnh tranh nên không tạo ra giá trị nữa, có rất nhiều
quan chức nhà nước không còn đặt câu hỏi liệu những gì cổ đông (tức là
công dân Mỹ có đóng thuế) và khách hàng của họ (người sử dụng dịch vụ
công) được nhận có xứng đáng với đồng tiền những người này đã bỏ ra hay
không.