Điều tình cờ là cái tập quán này của thuyền trưởng đóng một vai trò cơ
bản cho cái số phận hẩm hiu của tôi sau này, bởi vì mặc dù tôi đã thề sẽ
không được rời mắt khỏi người họ hàng của mình, tôi đã sốt ruột được ngắm
biển gần hơn và cái không khí nóng trong phòng làm tôi khó chịu điên
người.
Khi ông bác bảo tôi ra ngoài “thưởng thức”, tôi đã điên rồ nghe theo.
Tôi để lại hai người với nhau. Khi tôi đi ra, họ đang uống với nhau một
chai rượu nho và cúi xuống đống hồ sơ.
Ra đến ngoài trời, tôi vượt qua đường cái và đi xuống bãi biển. Khi gió
nhẹ, trong vịnh chỉ có sóng nhỏ đập vào bờ, sóng không lớn hơn trong biển
hồ mà tôi đã biết. Nhưng rong biển thì mới lạ với tôi, thỉnh thoảng trông nó
màu lục, thỉnh thoảng màu xanh nâu. Nó kéo thành dải dài với rất nhiều bọt
khí nhỏ, dẫm nhẹ vào cũng vỡ tan. Mùi nước biển bay sâu vào vịnh, không
khí đầy vị muối.
Tôi quan sát thấy những cánh buồm trên tàu Covenant, trước đó còn cuộn
thành từng bó, bây giờ treo rủ xuống từ những thanh căng buồm đang từ từ
căng lên.
Tất cả những ấn tượng mới đó đánh thức trong lòng tôi sự tưởng tượng về
những chuyến đi biển đến những miền xa xôi, lang thang ở những đất nước
và thành phố xa lạ.
Tôi cũng nhìn chăm chú chiếc thuyền kèm của Covenant. Đó là những
người to lớn, da cháy nâu, một số mặc sơ mi, một số mặc áo thủy thủ, một
số khác quấn quanh cố những khăn sặc sỡ. Một khẩu súng lục nhô ra khỏi
túi một thủy thủ, hai hoặc ba người có dùi cui và tất cả đã được trang bị dao
găm.
Một phần lớn thời gian hôm đó tôi ngồi nói chuyện với một người trong
số họ, một người trông không lạnh lùng như các chiến hữu của anh ta. Anh
ta nói cho tôi biết khi nào tàu ra biển và cho rằng khi thủy triều vừa lên thì
họ đi. Anh ta rất sung sướng được thoát khỏi cái hải cảng không có quán
nhậu, không có âm nhạc này. Anh ta chửi rủa nặng tới mức tôi phải biến đi.