này nhưng hắn bám dai như đỉa. Một tên khác xông vào vung dao găm. Ở
cửa cùng lúc xuất hiện mấy cái mặt. Lúc đó tôi nghĩ chúng tôi sẽ thua nhưng
nắm chặt hơn dao găm và tấn công vào phía sườn.
Tuy vậy tôi không kịp giúp Alan nữa vì cuối cùng tên bám sau đã phải
buông anh ra. Alan nhảy một bước dài lùi lại, lấy đà và như một con bò tót
điên khùng gầm lên và nhào vào tấn công. Bọn chúng bị bắn tung như nước
trong cú va chạm này, lăn tròn như bi và chạy bán sống bán chết, tên nọ đạp
lên tên kia, trong lúc thanh gươm trong tay Alan chớp lên như thủy ngân, lúc
chỗ này, lúc chỗ khác chém vào cái đống kẻ thù đang bỏ chạy. Một lần thanh
gươm loáng lên trong không khí là một tên bị chém hét lên. Tôi vẫn còn
nghĩ mình sẽ thua. Nhưng mà trông kìa, tất cả bọn chúng đã chạy hết, Alan
đuổi chúng ra boong như con chó săn lùa đàn cừu.
Anh quay lại rất nhanh giống như lúc anh xông ra, vì sự thận trọng của
anh cũng lớn như lòng dũng cảm vậy. Tụi thủy thủ tiếp tục chạy, chúng
tưởng như Alan còn đuổi theo. Chúng tôi nghe thấy chúng ào vào khoang
mũi tàu và cánh cửa đóng sập lại phía sau tên cuối cùng.
Phòng ngủ bây giờ như trong một lò mổ. Ba xác chết ở đó và một tên hấp
hối ở cửa. Còn Alan và tôi thì chiến thắng và nguyên vẹn. Với hai cánh tay
mở rộng, Alan đi tới chỗ tôi.
— Đến đây, cậu bé yêu quý! – Anh kêu lên và ôm tôi như bão táp – David
ạ, tôi yêu cậu như một đứa em. Và nói đi, tôi là một tay kiếm cừ khôi đấy
chứ?
Sau đó anh quay lại chỗ bốn xác chết, lần lượt ném chúng khỏi phòng.
Trong lúc làm anh hát một cái gì đó, đúng hơn là huýt sáo một vài nhịp riêng
lẻ và tôi nghĩ là anh đang cố nhớ lại một bài nào đó. Về sau tôi biết thực ra
anh đang sáng tác một nhịp điệu hoàn toàn mới. Mặt anh đỏ bừng như sốt,
đôi mắt sáng như mắt của một đứa trẻ lên năm khi được đồ chơi mới. Cuối
cùng anh ngồi xuống bên bàn, gươm vẫn cầm trong tay. Điệu nhạc anh đang
sáng tác đã hình thành và ngày càng rõ nét, cho nên có lúc anh đột nhiên hét
to lên. Đó là một bài hát tiếng Gaelic
.