Riach, như tôi đã nói, phải leo lên cột buồm. ông ta ngồi trên đó vừa chỉ vừa
hét với chúng tôi những gì ông ta nhìn thấy.
— Ở phía Nam sóng quá cao! – Ông ta hét lên, sau một lúc lại nói – Gần
bờ sóng êm hơn.
— Tốt thôi. – Hoseason nói – Chúng tôi muốn theo lời khuyên của ngài,
nhưng mà có thể cũng giống như tin vào một người mù. Cầu trời phù hộ
rằng ngài có lý!
— Trời sẽ phù hộ. – Alan nói với tôi – Tôi đã nghe nói về các vách đá
ngầm và con đường thủy tự do ở đâu nhỉ? Bây giờ sẽ đến cái gì phải đến.
Càng gần bờ biển chúng tôi càng nhìn thấy nhiều vách đá. Chúng nằm
ngay trước mặt chúng tôi và từng lúc một, ngài Riach kêu to cho chúng tôi
biết phải thay đổi “cua” thỉnh thoảng vào tận giây phút cuối cùng, vì nhiều
lúc chúng tôi đến sát một vách đá tới mức ngọn sóng cao vượt qua vách đá
tới được boong tàu chúng tôi và chúng tôi ướt như chuột.
Trong đêm trăng sáng có thể nhận ra mối hiểm họa như vào ban ngày,
thậm chí có thể làm sự việc hồi hộp hơn. Tôi cũng nhìn thấy rõ mặt viên
thuyền trưởng đang đứng cạnh người lái tàu. Ông ta nhấp nhỏm hai chân,
thổi vào hai bàn tay lạnh cóng, lắng nghe và chăm chú, nhưng đứng thẳng
như sắt thép. Trong cuộc đấu với Alan, cả ông lẫn ngài Riach không có gì
nổi bật, nhưng trong lĩnh vực sở trường của mình thì họ không chịu thua.
Tôi cũng khâm phục điều đó khi nhìn thấy mặt Alan tái mét.
— Ồ trời, David ạ, đây không phải cái chết mà tôi mong muốn!
— Alan, – Tôi nói – nhưng mà anh không sợ chứ?
— Không, – Anh nói và dùng lưỡi liếm môi – nhưng cậu cũng phải nhận
là cái kết cục dành cho chúng ta bi đát quá.
Trong lúc đó để tránh đá ngầm, xoay bên này hoặc bên kia, chúng tôi
càng bị gió cản mạnh và đi gần vào bờ biển đảo Mull. Sóng ở mũi đất này
rất mạnh và con tàu bị đung đưa dữ dội. Bây giờ phải hai thủy thủ cầm tay
lái và thỉnh thoảng chính Hoseason cũng phải tham gia vào nữa. Thật đáng