Tôi g ần nhưđã mặc xong quần áo, chỉ không tìm được cà vạt. Không tài
nào nhớ nổi tôi đã quẳng cái chết dẫm ấy ởđâu, tôi đành mặc áo khoác
không đeo cà vạt. Thầy Antolini ngồi xuống ghế bành cách xa, nhìn tôi. Tôi
không thấy rõ thầy vì tối, nhưng cảm thấy thầy quan sát tôi và nốc rượu.
Thế mà vẫn không rời tay khỏi cái cốc vại trung thành của mình.
- Cậu là thằng bé kì quặc, rất ư kì quặc!
- Em biết, - tôi nói. Thậm chí tôi cũng không thèm tìm cà vạt nữa. – Chào
th ầy! – Tôi nói – Cảm ơn thầy nhiều, thật đấy.
Th ầy theo tôi đến tận cửa, còn khi tôi vào thang máy, thầy dừng lại ở
ngưỡng cửa. Và lặp lại rằng tôi là một thằng bé rất ư kì quặc. Phải, kì quặc,
còn sao nữa! Ông ấy đợi cho đến khi cái thang máy ngàn đời đáng nguyền
rủa ấy đến. Chưa bao giờ trong đời, tôi lại phải đợi thang máy lâu đến thế,
quỷ tha ma bắt nó! Cả một thế kỉ, thề có Chúa!
Tôi th ậm chí không biết nói gì trong lúc chờ thang máy, còn ông ấy
cứđứng ở cửa, thế là tôi nói:
- Em sẽ bắt đầu đọc sách đứng đắn, thật đấy, em sẽ bắt đầu! - Cần phải nói
gì
đó. Tóm lại, chẳng tiện chút nào.
- Cậu lấy vali rồi bay ngay vềđây nhé. Tôi để cửa ngỏđấy.
- Cảm ơn thầy nhiều! – Tôi nói, - chào thầy, - cuối cùng thang máy đến. Tôi
đ óng cửa, đi xuống. Lạy Chúa, tôi bị xáo động quá. Mồ hôi đầm đìa.
Khi gặp phải những trò đê tiện, mồ hôi tôi cứ vã ra như tắm. Ở trường tôi đã
chạm trán với những trò chết dẫm này đến cả hai chục bận rội. Ngay từ nhỏ.
Tôi căm thù nó!
24
Khi tôi ra ngoài đường, trời bắt đầu rạng. Lạnh dữ dội, nhưng tôi thấy
dễ chịu
vì m ồ hôi đang ướt đẫm. Tôi hoàn toàn không biết đi đâu. Thuê khách
sạn bằng tiền của em gái thì tôi không muốn. Cuối cùng tôi đi bộđến
Lexington, xuống tàu điện ngầm đến nhà ga trung tâm. Vali ở nhà ga, tôi
quyết định ngủ thêm ở phòng đợi, nơi có đến cảđống ghế băng chết tiệt. Tôi
làm đúng như vậy. Thoạt đầu thì không sao, còn ít người và có thể nằm đặt
chân lên ghế. Nhưng tôi đâu muốn kể chuyện này. Một cảm giác khá tởm.