Sáng hôm sau, Ni-ki-tin lại cất cánh đầu tiên đi trinh sát. Trong khi đó,
tôi đi trên máy bay U-ti 2 đến sân bay bên cạnh, nơi có các xưởng máy để
bay thử một chiếc Mích vừa mới sửa xong, và đưa nó về trung đoàn.
Tôi định hoàn thành mọi công việc đó trước khi Ni-ki-tin trở về vì không
muốn để máy bay nằm rỗi ở sân bay. Nhưng dù cố gắng, tôi vẫn vượt quá
thời hạn dự định một chút. Trên dường trở về, tôi trách thầm mình về sự
chậm trễ đó, nhưng thật là ngạc nhiên, khi tới nơi, tôi thấy chỗ đỗ máy bay
vẫn trống trơn.
- Có lẽ anh ấy đã bị dính dạn - đồng chí thợ máy nói giọng ảo não.
Đó cũng chính là điều tôi suy nghĩ, chắc cậu ta đã phải hạ cánh bắt buộc
ở đâu đấy. Một phi công như cậu ta không dễ dàng bỏ máy bay của mình.
Mọi người trông chờ, gọi điện thoại tìm kiếm cho đến tận chiều. Bao
nhiêu tâm trí đều dành cho Ni-ki-tin. An-đrâỵ Tơ-rút bạn cùng trường với
Ni-ki-tin, mở một dĩa hát có lẽ đến lần thứ mười. Chỉ vì trong bài hát có
câu: “Không, anh không ở đây...” Không thể chịu được, tôi dừng máy hát:
- Đủ rồi An-đrây, kết thúc cái tình cảm sướt mướt ấy đi
Cửa kẹt mở. Anh ấy chăng? Không phải, đồng chí liên lạc vào. Anh báo
tin
- Vừa có diện thoại từ phòng tham mưu sư đoàn. Máy bay đã rơi trên tiền
duyên. Phi công không nhảy dù.
Sáng hôm sau, một tốp bè bạn chúng tôi đáp ô tô đến tiền duyên. Tiểu
đoàn trưởng bộ binh đã chỉ cho họ qua lỗ châu mai của đài quan sát, nơi
máy bay rơi. Và anh kể lại trận không chiến cuối cùng của Ni-ki-tin với
bốn chiếc Mét-xe.
Đầu tiên người ta thấy một chiếc “hai thân” lượn trên tiền duyên của ta.
Rồi từ cao tít trên nó, một máy bay tiên kích của ta xuất hiện, hệt như một
con chim ưng lao từ trên bầu trời không có mây xuống chiếc máy bay chỉ
điểm của địch và nổ súng. Chiếc máy bay địch bốc cháy và rơi ngay xuống
đất.