lượng của chúng để chống lại quân đội Xô-viết, tính ngăn cản chúng tôi
tiến vào Béc-lin đầu tiên.
Trận đánh này và những trận tiếp theo không kém kết quả đã cản trở
không quân Đức tổ chức những đòn đánh vào sân bay chúng tôi.
Vào cuối ngày, một biên đội do thiếu tá Pê-tơ-rốp dẫn đầu cất cánh đi
làm nhiệm vụ bảo vệ cho tiền duyên, đến gần mặt trận, họ gặp một hiện
tượng chưa bao giờ thấy: những máy bay Phốc-cơ Un-phơ bay như cưỡi
trên lưng những chiếc Gioong-ke. Đó là cái trò ma quỷ gì?.
Không mất thời gian suy nghĩ, Pê-tơ-rốp lập tức tiến công vào những con
quỷ và hạ ngay một chiếc bằng loạt đạn đầu. Cảm thấy nguy hiểm, những
máy bay tiêm kích địch bắt đầu thả ra khỏi “chân” những chiếc Gioong-ke
treo dưới bụng. Nhiều đám nổ lớn tung lên ở mặt đất. Thì ra những chiếc
Gioong-ke là như thế đấy: những khúc dồi bom.
Biên đội của Pê-tơ-rốp buộc những chiếc máy bay Phốc-cơ Un-phơ phải
vứt bỏ những trái “bom bay” định nhằm vào những đoàn quân Ba Lan,
đoàn quân này vẫn tiếp tục cuộc hành quân ban ngày, chẳng cần ngụy
trang, tin tưởng vào việc bảo vệ trên không của chúng tôi. Ta đã giành lại
được bầu trời từ tay kẻ địch.
Mùa xuân đến. Mặt đất khô ráo dần. Những cánh đồng nước Đức vào
mùa xuân này được cày xới bằng những quả bom, những trái đại bác, bằng
xẻng công binh, xích xe tăng mà không phải bằng lưỡi cày, đồng ruộng
cũng không được gieo hạt mà đầy xương người và mảnh đạn.
Vào tháng Ba, sư đoàn chúng tôi bỏ hẳn xa lộ mà hoàn toàn dùng sân
bay đất. Khi một chiếc máy bay lăn và cất cánh để lại trên mặt đất những
vệt bánh xe. Khi nhìn những dấu vết đó, không bao lâu sẽ rắn lại, chúng tôi
buồn rầu nghĩ đến mùa xuân của đất nước này, không có người cày trên
những cánh đồng, nhớ đến mảnh đất quê hương chúng tôi chỉ còn những cụ
già và đàn bà làm công việc đồng áng. Tôi nghĩ đến ngày kết thúc chiến
tranh sắp tới.