người điều khiển nó. Có lý nhất là A-tơ-ra-ski-ê-vích đã cố ý cho chiếc máy
bay đang bốc lửa lao xuống giữa đống xe cộ của địch.
Chúng tôi lao xuống các trận địa pháo cao xạ với cơn thịnh nộ, dốc tất cả
sức lực để trả thù cho người chỉ huy, người đồng chí đã mất. Sau đó, tôi lập
hợp toàn phi đội bay một lần nữa trên địa điểm đồng chí ấy đã hy sinh, lắc
cánh chào vĩnh biệt.
Trở về sân bay, sau khi lăn máy bay đến vị trí, tôi tụt khỏi buồng lái. ném
bao dù lên trên cánh máy bay, dừng một lát chờ xem có ai chạy đến không?
ai là người đầu tiên sẽ được báo cái tin tổn thất đau đớn này? Tôi sẽ nhìn
thấy nỗi đau buồn của mình phản ánh trong cặp mắt của ai đây?
Rồi có bóng người xuất hiện. Nhưng anh ta không chạy. Anh đi chậm
chạp, bước chân nặng như chì.
Đó là người thợ máy của A-tơ-ra-ski-ê-vích. Chắc chắn là trái tim anh
đang thắt lại, vì điều đã xảy ra không thể có gì bù đắp được.
Tôi hiểu rất rõ tình cảm của anh trong giờ phút này. Chính tôi cũng là thợ
máy bay. Tôi đã chuẩn bị hàng trăm lần cho cuộc bay của người chỉ huy,
người đồng chí đã phó thác tất cả mọi sự cho đôi mắt, đôi tay và sự hiểu
biết của tôi.
Ôi, cao quý thay những người thợ máy! Những người sau cùng rời sân
bay và bao giờ cũng là người đầu tiên trở lại khi trời chưa sáng. Những bàn
tay thành chai và lọ lem dầu mỡ, kiểm tra động cơ với một xúc giác vừa
tinh tế, vừa thận trọng, cũng giống như bàn tay của nhà phẫu thuật khi
chạm vào trái tim người.
Dạo này chúng tôi luôn luôn cất cánh để rồi mỗi khi trở về máy bay lại
có những lỗ thủng và những hư hại. Bản thân các đồng chí thợ máy cũng
rất lo lắng, xúc động. Các đồng chí bao giờ cũng gửi gắm tất cả tâm trí vào
chúng tôi, vào cuộc chiến đấu.
Nhìn người phi công của mình bay đi làm nhiệm vụ, người thợ máy
không thế nào yên tâm cho đến lúc anh trở về. Không một ai lại không
chăm chú quan sát bầu trời và không dỏng tai lên khi nghe thấy tiếng động