nhuận vốn, thu nhập thuần từ việc cho thuê và những nguồn
tương tự khác.
Phụ nữ sở hữu gần 1/3 tổng số công ty nhỏ ở Mỹ. Tuy nhiên,
khoảng 2/3 trong số những công ty này có doanh thu hàng năm
dưới 50.000 đô-la.
Khả năng phụ nữ rời bỏ chỗ làm cao hơn gấp bốn lần so với
nam giới.
Những con số khách quan trên đã cho thấy khá rõ vấn đề. Ở
Mỹ, phụ nữ ở thế bất lợi trong việc kiếm được thu nhập cao. Một
phần sự chênh lệch trong thu nhập có thể được lý giải bằng những
định kiến trong thị trường kinh tế. Nhưng chỉ mình định kiến thì
không thể nào giải thích đầy đủ thực tế rằng trong tốp 1% phân
phối thu nhập, cứ năm nam thì mới có một nữ. Có thể nguyên nhân
của sự bất bình đẳng tồn tại dai dẳng này xuất phát từ xu hướng
trợ cấp cho con gái của các bậc cha mẹ triệu phú.
Con gái của những người giàu có xu hướng không tự gây dựng sự
nghiệp riêng cho mình. Trong nhiều thập kỷ qua, những hộ gia đình
triệu phú luôn được xây dựng theo mô hình sau đây: Hơn 80% gồm
có một cặp vợ chồng và con cái, trong đó người vợ không đi làm toàn
thời gian. Thông điệp mà con gái họ nhận được qua thực tế này là:
“Mẹ không làm việc mà bố mẹ vẫn sống với nhau, thế nên chắc là
mình cũng không nên đi làm”. Thật khó phản bác được một kết luận
hợp lý như vậy. Thực tế thì mô hình này hoạt động rất tốt ở các gia
đình giàu có truyền thống. Tỷ lệ ly dị của những cặp vợ chồng giàu
có cũng thấp hơn nhiều so với mức bình quân.
Mô hình “cha đi làm, mẹ nội trợ” thường được con cái của những
cặp vợ chồng này sao chép nguyên xi, cả con trai lẫn con gái. Với con
gái, nhiều bậc phụ huynh triệu phú thực sự khuyến khích con