rán sơ với quả nam việt quất cho đến những miếng khoai tây chiên tuyệt
hảo. Tiếp đến bánh ngọt Mascarpone nhân hoa quả và đậu phộng ăn kèm
với kem tươi. Bây giờ nếu ai trong chúng tôi có mắc kẹt trên đảo hoang
suốt hai mươi năm trời thì chỉ cần số đồ ăn xung quanh là có thể sống sót
mà không cần thêm gì khác. Chúng tôi quyết định kết thúc bữa tiệc bằng
bánh pudding và bánh patê.
Tôi kiểm tra điện thoại mười bốn lần. Năm lần gọi vào máy của anh ta.
Những người khác thì bắn pháo giấy, ngồi nói khoác và cười với những
câu chuyện hài hước. Họ thậm chí đội những cái mũ giấy lòe loẹt. Ngoại
trừ Lucy, người luôn cho rằng đó là sai lầm phổ biến khi người ta cứ tưởng
đội một cái mũ giấy lố bịch thì bữa tiệc sẽ vui hơn. Chúng tôi uống khá
nhiều, nhiều khủng khiếp. Sâm banh, rượu sherry, rượu được hâm nóng và
pha chế, rượu trắng, rượu đỏ và rượu pooctô. Điều này lý giải tại sao chúng
tôi lại cười trước những câu chuyện hài dở tệ.
Sau bữa trưa, cánh đàn ông và Lucy lảo đảo đi vào phòng khách để hút
xì gà và uống rượu brandy. Bà Kirk và Rose bắt đầu thu dọn bàn ăn. Daisy
(cuối cùng cũng bị tách ra khỏi Simon) tiếp tục nhét nốt mấy miếng bạc hà
sôcôla vào miệng. Còn tôi, với nỗ lực tỏ ra cần mẫn, bắt đầu dốc sạch rượu
trong những cái cốc và ngồi xé vụn đống giấy pháo. Tôi khổ sở nhìn vào
chiếc điện thoại. Bà Kirk đã chú ý thấy. Không biết về vấn đề của tôi nên
bà ấy đề nghị đền bù chung chung, “Một cái bánh, hay pho mát nữa không?
Một miếng pho mát mềm nhé?” Bà ấy nâng khay bánh nặng lên. Công sức
kết hợp của cả một đàn bò và một đàn dê. Vẫn chưa ai động đến món này.
Tại sao anh ta không gọi điện chứ?
“Đang đợi điện thoại à?” Daisy hỏi.
Tôi giật mình vì câu hỏi chính xác một cách bất ngờ của cô ấy. “Ờ, ừ.
Của mẹ tớ.” Daisy nhìn tôi ra chiều thông cảm.