trọng của vấn đề hòa đồng với dân bản địa. Không cần bản đồ, không cần
hỏi đường, và không bao giờ tin tưởng mấy ông lái xe đội mũ.
Tôi nghĩ, nhìn Daisy rất thú vị và thông minh. Cô ấy trông giống kiểu
người mà tôi vẫn mong được gặp gỡ trong trường đại học: nghiêm túc,
đáng nể và đáng để ganh đua. Cô ấy còn có vẻ hoảng hốt khi bị tôi gọi tên
đột ngột. Sau này Daisy mới nói với tôi rằng cô ấy hoảng hốt không phải vì
tiếng gọi của tôi, mà vì không hiểu tại sao tôi lại gọi cô ấy. Lúc đó cô ấy
không muốn trả lời vì ngộ nhỡ tôi gọi người khác thì sao. Chúng tôi lúc đó
đều quá non nớt. Thiếu tự tin, thiếu lòng tin tưởng, và thiếu kinh nghiệm
thực tế. Những người trẻ tuổi thực sự lãng phí tuổi trẻ của mình. Họ quá
nghèo, cả về vật chất lẫn tinh thần để hưởng thụ nó. Tôi có thể phát biểu
câu đó vì giờ tôi đã ba mươi - cái tuổi tự tin đầy mình. Ngoại trừ việc cởi
đồ thì vẫn vậy. Tôi tự tin, nhưng không phải là bất khả chiến bại.
Daisy lúng túng cố tìm một câu đáp hóm hỉnh và duyên dáng. Ngập
ngừng, cô thông báo đúng sự thật là chọn môn cổ điển, sau đó biến mất hút
phía góc hành lang. Sau đó ngồi ở quán bar sinh viên, trên cái ghế foc-mi-
ca màu da cam, tôi nhận ra rằng Daisy có vô khối những lý do chính đáng
cho sự lựa chọn của mình. Cô ấy hiểu biết và rất hứng thú với thần thoại
Hy Lạp và La Mã. Cô ấy hy vọng rằng những tài liệu tham khảo cổ điển
cho văn học Anh (môn học chính của cô) sẽ rõ ràng hơn nếu cô có hiểu biết
sâu sắc hơn về những nữ hiệp và anh hùng trong thần thoại.
Tôi chọn môn đó cho giống Daisy.
Sau đó chúng tôi chia sẻ các ghi chép bài giảng, những bí mật, cả những
căng thẳng mệt mỏi hay thành công, thăng trầm của cuộc sống sinh viên.
Ngày qua ngày, chúng tôi trở nên thân thiết. Khi bạn bè của tôi ngày càng
đông hơn (một số người thu hút nhưng khó tính, một số thì nông cạn nhưng
dễ tính), Daisy vẫn thu mình lại với một vài người bạn thân thiết. Trong số
tất cả các bạn tôi, Daisy tự coi cô ấy là người bạn chân thành và ngốc