trên áo tơi. Tôi ngồi vào ghế hỏi cà phê nóng, con sáu cười gật đầu đi pha
mang lại. Tôi cho một muỗng đường và quay nhanh chiếc muỗng. Một
người con trai mặc áo quần xanh đi vào, kéo ghế ngồi xuống trông ra ngoài,
hỏi đứa con gái mặc áo đen vàng đi vào sau:
-Người này hả?
Đứa con gái ngồi quay lưng lại phía tôi:
-Ừ, chú đó bỏ đi có ba bốn năm chi rồi đó.
Người con trai xoay xoay ly cà phê vừa được mang tới hỏi đứa con gái:
-Hiền uống gì? Rồi rút thuốc lá ra hút nhìn sang tôi.
Hiền nói nhỏ:
-Thôi gần ăn cơm rồi, uống gì nữa.
-Đêm qua thế là đánh có bốn, năm nơi kia, ồn ào quá.
Tôi uống xong gọi con Sáu đến trả tiền. Hiền quay lại hỏi:
-Nghe lính Prou chết nhiều lắm hả chú?
Tôi lắc đầu đẩy chiếc ly không về phía trước:
-Có đâu, chưa tới mười lăm mạng, khéo ồn.
Thi đi vào hỏi tôi ra hay ở lại. Tôi nói ở lại, hắn quay đi, tôi gọi theo. Thi
nhảy lên ca-bin cho xe nổ máy, trở đầu lại, chạy lên cầu phà. Cơn mưa đã
ngớt hẳn, số người còn lại đứng vây quanh quan tài bàn tán về những trận
đêm qua, một vài đôi mắt lơ đãng ngó theo chiếc xe. Hai cây nến vật vã
cháy. Người con trai nói với Hiền gì đó rồi chụm đầu lại cười. Tôi chưa hề
thấy mặt hắn, có lẽ dân đâu mới tới, giọng hắn ấm vui. Hiền xoa xoa bàn
tay xuống bàn cười ngặt nghẽo. Có phải đời sống này được kiến trúc trên
một sắp đặt vô hình nào đó phải không. Có người sinh ra để hạnh phúc, để
trò chuyện thầm thì, để ngặt nghẽo cười, và có kẻ sinh ra để la hét, chửi thề.
Bình với hình ảnh người cha què cụt từ chiến tranh kháng Pháp còn lại,
chống nạng lê lết tới lui rồi một ngày té xuống ao nằm chết, không rõ cố ý
hay vô tình, và người mẹ ốm đau dai dẳng cho đến ngày khạc ra từng búng
máu tươi, xuôi rũ tay chân. Cũng như Bình sứt, tôi không có gì cả. Cho đến
ngày hôm nay tôi mới nhận thế sao? Bây giờ thì không còn mày. Tao một
mình về đây. Tao mệt quá rồi. Không lẽ đợi đến một ngày chết tan nát để
được mang về hoặc không được mang về đây. Mà có ai để mang tao về. Tôi
đuối sức rồi. Tôi muốn yên nghỉ. Tôi muốn trở về kiến nhật lại từ đầu. Bắt