tính). Thị trường hiện nay có khoảng 100 sản phẩm CASE. Công nghệ
CASE nổi bật bởi khuynh hướng khai thác sau lo gic các quá trình mà nhận
thức thông thường chỉ nhìn thấy những phần rời rạc không có gì liên quan
với nhau của các hiện tượng. Khi các nhà khoa học chỉ nhận thức được các
thành tố, thì, về mặt nguyên tắc, không thể đưa ra kết luận ở dạng một tổng
thể thống nhất. Các chuyên gia sử dụng Công nghệ CASE không chỉ nhận
thức được các quá trình khác nhau theo mẫu chuẩn, mà còn có khả năng đi
tới mẫu số chung.
Ví dụ, một trong những hệ thống phương pháp đơn giản nhất và thông
dụng nhất là IDEFO – hệ thống phương pháp thiết lập mô hình chức năng
(hoạt động) của hệ thống và môi trường sản xuất. Nó được dựa trên cơ sở
của phương pháp lập kế hoạch chức năng SADT do các nhà khoa học Nga
tìm ra vào giữa những năm 1970. Từ đó đến nay, các nhà phân tích hệ
thống của toàn thế giới luôn sử dụng các tiếp cận này để soạn thảo các
chương trình máy tính kế hoạch chiến lược, soạn thảo chương trình bảo
đảm hệ thống phòng thủ, điều hành các nguồn lực. Trong khuôn khổ
chương trình chuyên dụng, các phương pháp SADT đã được chuẩn hóa, và
sau này được gọi là hệ thống phương pháp IDEFO. Từ năm 1981 Lực
lượng Không quân Mỹ đã yêu cầu tất cả các hãng cạnh tranh để ký các hợp
đồng phải thể hiện và lập cơ sở đề nghị của mình bằng thuật ngữ IDEFO.
Điều đó dẫn tới việc, nhờ sự hỗ trợ của hệ thống phương pháp này người ta
dễ dàng mô tả sự điều hành, mối liên hệ ngược và cơ chế thi hành. Kết cấu
cơ bản của mô hình IDEFO là khối (Blok) chức năng. Trong cơ sở của hệ
thống phương pháp có những nguyên tắc như: Khối chức năng chuyển đổi
các đầu vào thành các đầu ra; sự điều khiển xác định khi có thể có các
chuyển đổi đó hoặc khi chuyển đổi đó xảy ra; cơ chế thực hiện trực tiếp sự
chuyển đổi đó. Tóm lại, mô hình IDEFO không chỉ là một biểu đồ thuần
túy. Đó là biểu đồ được định sẵn thể hiện đầu vào – ra của chuyển đổi,
đồng thời cho biết nguyên tắc của các chuyển đổi đó.
Hệ phương pháp IDEF1X – một trong những quan điểm mô hình hóa
ngữ nghĩa các số liệu dựa trên công thức Entity Relationship (ER – quan