sự giàu có của đất nước và nhân dân. Ví dụ, tổng giám đốc một xí nghiệp
dầu mỏ tư nhân là ngài Bộ trưởng Công nghiệp dầu mỏ đương chức Nikolai
Lemaiev. Tổng giám đốc nhà hàng “McDonals -Matxcơva” là thủ trưởng
của ngành “thực phẩm Matxcơva” Iuri Malyskov”.
Chiến tranh kinh tế đã có một khía cạnh đặc biệt của nó trong điều kiện
Liên Xô bị phân tán. Khi đó, như là được ra lệnh, tất cả các nước cộng hòa
đã ngừng cấp mọi nguồn lực, kể cả tài chính, về cho Trung ương. Những
yêu sách của các nước cộng hòa đã khoét sâu thêm sự đổ vỡ giữa chúng
cũng như trong quan hệ với Trung ương: “Năm 1989, vấn đề đã đi đến chỗ
tất cả các nước cộng hòa từng gia nhập vào Liên Xô đã đưa ra những tình
toán “không thể bác bỏ” rằng không một nước cộng hòa nào nhận được sự
giúp đỡ và hỗ trợ từ những nước cộng hòa khác. Ví dụ, Gruzia đã xuất siêu
tới 4 tỷ rúp; ủy ban nghiên cứu và xác định mức độ bồi thường của Liên Xô
cho Cộng hòa Litva và nhân dân Lítva cho rằng toàn Liên Xô nợ họ
462.121.854.500 USD.
Nền kinh tế Liên Xô vốn đã phát triển không thật tốt nhất khi chưa có tác
động tiêu cực của bên ngoài. Tình hình đó, cho đến khi Mỹ thực hiện Chỉ
lệnh của Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) NSDD số 66 (ngày 13 tháng11
năm 1982), áp dụng bổ sung các phương thức phá hoại có chủ ý trong lĩnh
vực tài chính và kinh tế thì hệ thống đã bị phá vỡ hoàn toàn. “Chiến dịch
chống rượu” tất nhiên đã có vai trò đặc biệt trong vấn đề này; những sự
chuyển hướng của các nguồn tài chính, trước hết là cho đầu tư và lĩnh vực
phi sản xuất; việc chấm dứt hoạt động của các xí nghiệp “bẩn” về sinh thái
sau hội chứng Chernobyl – như nhà máy điện nguyên tử ở Armenia vào
năm 1988-1989); những cuộc bãi công ở vùng ngoại Kavkaz, cũng như của
những người thợ mỏ Kuzbass[12]; âm mưu chuyển 130 tỷ rúp thành 7 tỷ
USD (do G. I. Philsin, Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu của Viện kinh tế và tổ
chức sản xuất công nghiệp tiến hành, nhờ kết quả bầu cử đã trở thành đại
biểu nhân dân Liên Xô, sau đó giữ cương vị Phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Liên Xô).