hợp có chiến tranh với Liên Xô. Liệu chúng ta có thể mong đợi rằng chúng
ta sẽ hoàn thành cuộc chiến tranh này cùng một kết cục chính trị và quân
sự như trong trường hợp của cuộc chiến tranh chống Đức và Nhật Bản vừa
qua. Vì vậy, khi mọi sự chưa rõ ràng là những mục tiêu của chúng ta không
nằm trong một chiến thắng quân sự, mà vì thế công chúng Mỹ sẽ khó nhận
thức được rằng trên thực tế sẽ là một kết cục xung đột như mong muốn.
Công chúng có thể trông chờ vào một kết cục quân sự to lớn hơn rất nhiều
so với mức cần thiết, thậm chí là quá cả sự mong đợi trong quan điểm
giành được thực sự những mục tiêu của chúng ta. Nếu mọi người đều sẽ
hiểu rằng những mục tiêu của chúng ta là sự đầu hàng vô điều kiện, chiếm
đóng hoàn toàn và có một chính phủ quân sự theo mô hình của Đức và
Nhật Bản, thì họ, đương nhiên, sẽ cảm nhận rằng, ngoại trừ những thành
tựu này, mọi cái khác hoàn toàn không phải là một chiến thắng thực sự và
họ sẽ không thể đánh giá sự điều chỉnh mang tính xây dựng và thực sự cơ
bản.
Cuối cùng, chúng ta phải công nhận rằng những mục tiêu của Xô Viết tự
thân là thực sự vĩnh cửu. Những bước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình
đã thực sự không ảnh hưởng tới họ. Ví dụ, những mục tiêu về lãnh thổ của
Xô Viết đối với Đông Âu đã từng là hiển nhiên trong diễn biến của cuộc
chiến tranh đang rất giống với chương trình mà Chính phủ Xô Viết đã nỗ
lực hiện thực hóa bằng các phương tiện phi quân sự trong những năm 1939-
1940, và về bản chất, giống như một số công thức chính trị và chiến lược
có trong đường lối Nga hoàng trước chiến tranh thế giới I. Để chống lại
một đường lối đã từng được tiến hành một cách kiên trì như vậy trong cả
thời chiến và thời bình, chúng ta phải chống lại từ những nhiệm vụ kém
vững chắc và dài hạn hơn. Tóm lại, điều này được tạo nên bởi chính bản
chất những quan hệ giữa Liên Xô với thế giới bên ngoài – những quan hệ
mang tính xung đột và đối kháng thường xuyên nằm trong khuôn khổ của
một nền hòa bình hình thức cũng như trong khuôn khổ hợp pháp của chiến
tranh.