Tư lương nhất dạ, bất như đả cán nhất phiên, nhược hoàn thác, phiền não cập phế can.
Suy nghĩ một đêm, không bằng bắt tay vào làm một lần, nếu còn sai sót, phiền não với gan phổi (đem hết
sức ra suy nghĩ tính toán).
358.
心細膽粗, 可勝上將之任, 勇往前行成敗何必在心, 胸中把持得定, 敵人自能受困.
Tâm tế đảm thô, khả thắng thượng tướng chi nhiệm, dũng vãng tiền hành thành bại hà tất tại tâm, hung
trung bả trì đắc định, địch nhân tự năng thụ khốn.
Tâm nhỏ mật to, có thể thắng công việc của thượng tướng, mạnh dạn tiến lên việc thành bại nào chỉ do
tâm, trong bụng đã nắm giữ sự định đoạt, kẻ địch sẽ tự thua mà thôi.
359.
天念苦修人, 終不落紅塵, 清心能見道, 擾擾喪真靈.
Thiên niệm khổ tu nhân, chung bất lạc hồng trần, thanh tâm năng kiến đạo, nhiễu nhiễu táng chân linh.
Trời biết người khổ tu, rốt ráo không rơi xuống hồng trần, lòng trong trắng có thể thấy đạo, sự phiền
nhiễu làm mất chân linh.
360.
捕兕於淵, 求魚於山, 從朝至暮, 功負力捐, 改弦易轍, 庶可圖全.
Bộ huỷ ư uyên, cầu ngư ư sơn, tùng triêu chí mộ, công phụ lực quyên, cải huyền dị triệt, thứ khả đồ toàn.
Bắt tê giác (cái) dưới hang sâu, bắt cá trên núi, từ sáng đến chiều, sức lực mòn mỏi, sửa đổi cách làm,
may ra còn hy vọng.
361.
手持一木魚, 沿街去化緣, 不見徐公來, 卻遇一鳥去.
Thủ trì nhất mộc ngư, diên nhai khứ hoá duyên, bất kiến từ công lai, khước ngộ nhất điểu khứ.
Tay cầm con cá gỗ (cái mõ), trên đường đi hóa duyên (khất thực), chẳng gặp ông họ Từ đến, chỉ gặp con
chim bay.
362.
水火既濟, 陰陽相契, 育物新民, 參天贊地.
Thuỷ hoả kí tế, âm dương tương khế, dục vật tân dân, tham thiên tán địa.
Thủy hỏa giao hòa, âm dương khế hợp nhau, muốn đổi mới sự vật, nghiên cứu rõ lẽ trời đất (tự nhiên) mà
làm.
363.
騎玉兔, 到廣寒, 遇嫦娥, 將桂攀, 滿身馥鬱, 兩袖馨香.
Kỵ ngọc thố, đáo Quảng Hàn, ngộ Hằng Nga, tương quế phàn, mãn thân phức uất, lưỡng tụ hinh hương.
Cỡi thỏ ngọc, đến cung Quảng Hàn, gặp Hằng Nga, bẻ cành quế, toàn thân sực nức hương thơm, hai tay
áo cũng đầy mùi thơm.
364.
一個神道, 隨爾去行, 逢人說法, 到處顯靈.
Nhất cá thần đạo, tuỳ nhĩ khứ hành, phùng nhân thuyết pháp, đáo xứ hiển linh.
Một pháp thần đạo, tùy anh vận dụng, gặp người thuyết pháp, đến chỗ hiển linh.
365.
爐中火, 沙裏金, 功力到, 丹鼎成.
Lô trung hoả, sa lí kim, công lực đáo, đan đỉnh thành.
Lửa trong lò, vàng trong cát, công lực đến, lò thuốc linh đan luyện thành.
366.
此去萬里程, 卻遇見知音, 同心共濟, 大立勳名.
Thử khứ vạn lí trình, khước ngộ kiến tri âm, đồng tâm cộng tế, đại lập huân danh.
Chuyến đi này dài muôn dặm, may gặp được tri âm, cùng nhau hợp tác, làm nên việc lớn.
367.
尋芳春日, 適見花開, 朵朵堪摘, 枝枝可栽.
Tầm phương xuân nhật, thích kiến hoa khai, đoá đoá kham trích, chi chi khả tài.
Tìm mùi thơm ngày Xuân, vừa gặp hoa nở, mỗi đóa có thể hái, mỗi cành có thể trồng.
368.
龍一吟, 雲便興, 沖霄直上, 快睹太平, 為文為武, 君君臣臣.
Long nhất ngâm, vân tiện hứng, xung tiêu trực thướng, khoái đổ thái bình, vi văn vi vũ, quân quân thần
thần.
Rồng kêu lên, mây liền nổi, bay thẳng lên trời, nhanh thấy thái bình, làm văn làm vũ, vua vua tôi tôi.
369.
虎出金榜, 有勇亦何濟, 怎似山翁, 非富猶有趣.
Hổ xuất kim bảng, hữu dũng diệc hà tế, chẩm tự sơn ông, phi phú do hữu thú.
Cọp ra khỏi bảng vàng, có sức mạnh cứu giúp mọi việc, nhưng giống như “sơn ông” (ông già ở núi), không
làm giàu là do sở thích của ông.