Mãi đến ngày thứ sáu, 16 tháng ba, kế hoạch của Xy-ri mới được thực
hiện thật rõ ràng và hết sức rộng rãi. Chính phủ Đa-mát đã quyết định đánh
một đòn quyết định trên hồ Ti-bê-ri-át để bác bỏ chủ quyền của I-xra-en
trên bộ phận đất đai này.
Sau khi xảy ra chiến sự hai mươi phút, thủ tướng I-xra-en ông Ben Gu-
ri-ôn đã tiếp Tổng tham mưu trưởng, tướng Đơ-vi Dua và viên chỉ huy
quân sự khu Bắc, Mai-ơ Dô-rê-a tại khách sạn. Ben Gu-ri-ôn với toàn
quyền của chính phủ trao cho, liền ra lệnh cho hai người này, bao vây và
bắt các đồn Xy-ri ở trên hồ phải ngừng bắn.
Vào nửa đêm hôm thứ sáu, nhiều trung đoàn I-xra-en đã tiến công đồn
Nu-kê-íp.
Trận Nu-kê-íp, nói là vào ngày 16 tháng ba, nhưng thực ra kéo dài mãi
đến bốn giờ sáng hôm sau thật là gay go và đẫm máu. Sau nửa giờ một ít,
những người lính I-xra-en đầu tiên đột nhập vào đất Xy-ri đã rơi trúng vào
một bãi mìn. Suốt đêm ấy, đạn trái phá nổ làm sáng rực cả thung lũng
Giuốc-đanh. Những đơn vị của sư đoàn bộ binh “Giô-la-ni” sau cùng đã
chiếm được đồn Nu-kê-íp, đánh phá đến chiến hào cuối cùng.
Ngược lại quân đội Xy-ri đánh trả bằng cách bắn phá trại En-ghếp,
không quân I-xra-en cũng tham chiến bắn phá tất cả những nơi đóng quân
của quân đội Xy-ri dọc bờ hồ, trên những ngọn đồi.
Ở khu vực biên giới I-xra-en – Xy-ri này, tất cả các đồn lũy của Xy-ri
đều đóng ở phía trên những ngọn đồi cao, còn các đồn của I-xra-en thì lại
nằm ở trên một dải đất chật hẹp chạy dài theo hồ. Ở khu này, súng đại liên
và trọng pháo của quân Xy-ri nhằm vào phía I-xra-en đều ở tầm chúc từ
trên xuống. Quân I-xra-en phải trả giá khá đắt cho những bất lợi này: ba xe
bọc thép “Háp-tơ-rắc” chạy xích bỏ lại trên đất Xy-ri, trên bãi mìn mà
những tên lính I-xra-en đầu tiên vấp phải, bảy tên I-xra-en bỏ mạng, xác tên
thứ tám bỏ lại trên đất Xy-ri và tên thứ chín có lẽ là mất tích.