369
thành trung tâm giữa những hoàn cảnh. Điều đó
không nhất thiết nghĩa là ở giữa đầu. Nó chỉ là vấn
đề cố định suy nghĩ của người ta vào điểm nằm
đích xác ở giữa hai mắt. Thế thì mọi sự là tốt. Ánh
sáng là cái gì đó cực kì linh động. Khi người ta cố
định ý nghĩ vào điểm giữa hai mắt, ánh sáng chảy
theo cách riêng của nó. Không cần hướng chú ý đặc
biệt vào lâu đài trung tâm. Trong vài lời này điều
quan trọng nhất được hàm chứa.
‘Trung tâm ở giữa các hoàn cảnh' là cách diễn đạt
rất tinh tế. Trung tâm là toàn năng; mọi thứ đều
được bao hàm trong nó; nó được nối với việc đưa ra
của toàn thể quá trình sáng tạo.
Nhìn cố định trầm tư là không thể thiếu được; nó
đảm bảo việc làm nhanh chóng chứng ngộ. Duy
nhất người ta phải không ngồi cứng nhắc nếu ý nghĩ
trần tục kéo tới, mà người ta phải xem xét ý nghĩ
này ở đâu, nó bắt đầu từ đâu, và nó nhạt nhoà ở
đâu. Không cái gì được thu lấy bằng việc thúc đẩy
suy nghĩ thêm nữa. Người ta phải bằng lòng nhìn
nơi ý nghĩ nảy sinh, và không tìm ra bên ngoài điểm
khởi thuỷ; vì tìm ra tâm thức trung tâm, đi ra đằng
sau tâm thức bằng tâm thức - điều đó không thể
được làm. Cùng nhau chúng ta muốn đem các trạng
thái của tâm về nghỉ ngơi, đó mới là trầm tư đúng.
Điều mâu thuẫn với nó là trầm tư giả. Điều đó
không đưa tới mục đích nào. Khi ánh sáng của ý
nghĩ cứ mở rộng thên nữa, người ta nên dừng lại và
bắt đầu trầm tư. Để người ta trầm tư và thế rồi bắt
đầu nhìn cố định lần nữa. Đó là phương pháp kép
làm nhanh việc chứng ngộ. Nó có nghĩa là luân
quang. Luân chuyển là việc nhìn cố định. Ánh sáng
là trầm tư. Nhìn cố định không trầm tư là luân