Vào một năm, nước sông Đáy lên cao. Cứ sau một giấc ngủ ngắn tỉnh
dậy, dân làng đã thấy nước lên đến cả mét. Bà tôi đội nón, khoác áo tơi lá ra
sông. Rồi bà tôi đến chùa tìm vị sư già cầu xin nhà sư tụng kinh cầu trời rút
nước. Nếu không, đê vỡ thì cả làng không chết vì nước cũng chết vì đói.
Vị sư già sắm lễ, tụng kinh suốt ngày đêm. Trong tiếng mưa rền rĩ là
tiếng mõ và tiếng tụng kinh đều đều bền bỉ của nhà sư. Cả đêm ấy, bà tôi
không ngủ được. Vừa mờ sáng bà đã chui ra khỏi lều trên mặt đê nhìn
xuống sông. Bà tôi sợ hãi nhận thấy nước chẳng những không rút chút nào
mà còn dâng lên. Bà tôi chạy xuống chùa. Vị sư già vẫn ngồi như thế từ
hôm qua. Tiếng mõ và tiếng tụng kinh vẫn bền bỉ trong tiếng mưa gió gào
thét. Đến sẩm tối thì nước đã lên mấp mé mặt đê. Bà tôi cùng nhiều dân
làng đứng trên đê khóc. Dưới chân đê phía cánh đồng, tiếng mõ và tiếng
tụng kinh của vị sư già vẫn đơn độc vang lên.
Khoảng canh ba, những người làng dọn lên mặt đê ở bỗng nghe một
tiếng “ầm” khủng khiếp vang lên. Và sau đó là tiếng réo ù ù như từ trên trời
đổ xuống. Đê vỡ. Những người lớn ôm lấy con cái khóc như
Sáng hôm sau, bà tôi không nhìn thấy làng đâu nữa. Tất cả đã chìm vào
trong nước. Cả ngôi chùa nhỏ cũng biến mất. Bà tôi chạy đi tìm vị sư già,
nhưng không thấy. Nước đã cuốn ngôi chùa nhỏ cùng vị sư già xuống đáy
đầm Vực. Chỉ còn lại mấy chú tiểu. Vào giữa đêm, vị sư già đã ra lệnh cho
các chú tiểu lên mặt đê. Nhà sư ở lại một mình gõ mõ tụng kinh cầu cho
nước rút.
Sau này, người làng cũng không tìm được thi thể nhà sư. Vào những
ngày nước trong trời đẹp, người làng vẫn nhìn thấy bóng ngôi chùa dưới
đáy nước. Bà tôi bảo, vào những đêm thanh vắng, bà tôi vẫn nghe thấy
tiếng mõ và tiếng tụng kinh của nhà sư già dưới đáy nước đầm Vực vọng
lên.