- Trẻ con đi ra ngoài kia. Đây không phải chỗ của chúng mày.
Tôi bước ra ngoài sân. Tôi đứng giữa sân nhìn về phía chân đê. Ở đó
hoa tầm xuân đang bời bời nở. Chưa có năm nào hoa tầm xuân lại nở nhiều
đến thế.
Hình như tất cả trẻ con xóm trại đều đi đưa tang ông Bộc. Đó là một
ngày nắng ấm. Dọc hai bên đường chạy từ chân đê ra khu nghĩa địa của
làng nở đầy hoa tầm xuân. Cả đám tang hầu như không có tiếng khóc. Và
đặc biệt không có điếu văn. Người viết điếu văn của làng không biết viết về
ông Bộc như thế nào. Đội bát âm của làng cũng không đủ. Chỉ có một
người thổi kèn và một người đánh trống. Tiếng kèn đơn điệu như tiếng kèn
bằng lá dứa dại mà bọn trẻ chúng tôi vẫn hay thổi trên đê.
Ông Bộc được chôn vào một góc nghĩa địa. Khi những người lớn đã về
hết, lũ trẻ chúng tôi hò nhau lấy đất cày ở gần đó đắp thêm cho ngôi mộ của
ông Bộc. Sau đó, tôi đến trước mộ bà tôi:
- Bà ơi! - Tôi nói khẽ - Ông Bộc đi theo bà rồi đấy.
Sau đó, tôi đào một ít cây hoa cúc trên mộ bà tôi trồng vào mộ ông Bộc.
Những bông cúc vàng làm ngôi mộ trông ấm hẳn. Tôi ngồi xuống trước mộ
ông Bộc thì thầm:
- Ông Bộc ơi! Cháu hứa sẽ bắt được con cá một mắt cho ông.
Đêm đó, cả đầm Vực bị khuấy động gần như suốt đêm bởi con cá.
Những người đàn ông xóm trại tụ tập trên mặt đê. Lũ trẻ chúng tôi cũng có
mặt trên đó. Những người đàn ông lại sôi sục bàn nhau bắt con cá. Suốt
đêm con cá quẫy đạp và kêu i i thống thiết.
Sáng hôm sau, những người đàn ông xóm trại m cuộc vây bắt náo nhiệt
trên đầm Vực. Nhưng họ không hề bắt được gì, kể cả một con cá mè. Có