tiền ở gò sông. Và chỉ sau ba tháng, chúng tôi lại kiếm đủ số tiền để mua
sợi đay và thuê bác thợ rèn ở chợ Tía uốn chiếc lưỡi bừa để làm lưỡi câu.
Buổi trưa, lũ trẻ chúng tôi phân công nhau ra gò sông bí mật xe dây đay
và giũa lưỡi câu. Chúng tôi thực hiện công việc đầy háo hức nhưng cũng
đầy bí mật. Đến cuối thu, khi nước đầm Vực rút thì chúng tôi cũng đã hoàn
thành công việc. Chúng tôi chỉ chờ ngày mà những người đàn ông xóm trại
vào mùa lấy cát thuê, hoặc chở vôi, gạch thuê là chúng tôi mang bộ đồ câu
ra đầm Vực. Vì những ngày ấy, những người đàn ông xóm trại theo thuyền
ba bốn ngày liền. Như vậy, không ai có thể phát hiện ra kế hoạch của chúng
tôi.
Một buổi chiều trước ngày những người đàn ông xóm trại dong thuyền
xuôi sông Đáy, chúng tôi tụ tập ở gò sông để bàn kế hoạch thực hiện. Tất cả
đã được chuẩn bị kỹ lưỡng từ tời cuốn dây đến tiền mua vịt làm mồi.
Nhưng một vấn đề quan trọng lại được đưa ra, làm chúng tôi lo lắng. Đó là
việc con cá một mắt còn ở đầm Vực hay đã theo đường thông ngầm ra sông
Đáy, ra biển rồi.
- Từ hồi hè đến giờ chẳng ai thấy con cá ấy quẫy gì cả. - Một đứa nói.
- Hay là nó bỏ ra biển rồi. - Đứa khác lên tiếng.
- Nó vẫn ở trong đầm Vực đấy. - Tôi lên tiếng.
- Sao mày biết? - Lũ trẻ hỏi tôi.
- Ban đêm tao vẫn ng thấy nó kêu i i. - Tôi quả quyết.
- Dế kêu mày lại nghĩ là con cá một mắt kêu thì có. - Một đứa nói.
Nghe vậy cả bọn phá lên cười.