Cuối cùng chỉ còn có tàu ngầm tí hon của tôi và của trung úy Kiếc-xơ
là vượt qua được chặng đường hiểm nguy này, tiến lại gần được chiếc Tiếc-
pít-dơ. Qua kính tiềm vọng, tôi nhìn rõ chiếc chủ lực hạm đồ sộ này dễ có
lượng giãn nước tới 45.000 tấn. Đúng như bọn Đức thường tuyên truyền
huênh hoang trên, báo chí và đài phát thanh của chúng. Hẳn bọn Đức chủ
quan tin vào quân cảng của chúng là bất khả xâm phạm, nên bọn sĩ quan và
thủy thủ trên tàu vẫn nhởn nhơ: đứa uống rượu, đứa ca hát om sòm, tiếng
cười đùa, la hét vang cả mặt biển.
Biết trung úy Kiếc-xơ cũng vừa cho tàu nổi lên, tôi hướng thẳng tàu
vào tuần dương hạm và cứ thế tới tấp phóng ngư tôi. Tàu ngầm của Kiếc-
xơ cũng phối hợp nhịp nhàng như vậy. Chỉ có hai chiếc mà chúng tôi dám
quây lấy “pháo đài nổi” này phóng ngư lôi loạn xạ tưởng chừng như nó
đang bị một đoàn tàu khá đông bao vây vậy. Bị tấn công bất ngờ, lúc đầu
bọn Đức tỏ ra rất hoang mang, nhưng sau trấn tĩnh lại, đoán chừng số tàu
đối phương tấn công không đông lắm, chúng bèn cho nổ tất cả các loại
súng trên tàu. Lưới lửa dày đặc đến nỗi các sĩ quan và thủy thủy trên hai
chiếc tàu ngầm cảm thấy không thể nào chịu nổi đòn trừng phạt sấm sét
này. Biết chắc không thể trốn thoát được, họ bàn nên tự đánh đắm tàu và ra
hàng. Riêng tôi, còn giữ danh dự của hải quân Anh nên sau khi tàu tự đánh
đắm, tôi cố bơi lọt được vào bờ trốn lên núi. Sau đó tôi được thăng cấp từ
trung úy vọt lên thiếu tá không phải qua cấp đại úy.
Với giọng nói say sưa, thiếu tá thuyền trường Mắc thường kể lại chiến
công đó cho các thủy thủ trên khu trục hạm nghe như vậy.
Từ ngày được thăng lên trung tá, điều về làm việc tại bộ tham mưu hải
quân Anh, Mắc không hết lời đề cao các loại tàu ngầm: Bất cứ nước nào
muốn làm chủ trên mặt biển nếu chỉ trông chờ vào hạm tàu trên mặt nước
thì không được, phải có tàu ngầm.
Mắc cũng không hề giấu giếm gì việc tàu ngầm Đức trong đại chiến
thế giới lần thứ nhất đã đánh đắm tới sáu ngàn tàu buôn của đồng minh, cắt
đứt đường tiếp tế, bao vây chặt chẽ và đẩy nước Anh vào một tình trạng