càng tỉnh. Bác thấy thương vợ, thương con rồi thương đến chính bản thân
mình. Nhà cao cửa rộng không thấy nhưng số phận bác rồi sẽ kết thúc bi
thảm trong căn phòng tối tăm ảm đạm này.
Bác không muốn tục huyền, vì chẳng muốn kéo theo một người nữa
đau khổ. Bác rất thương con gái và mong muốn sao cho con mình thoát
khỏi cái địa ngục đen tối này, nhưng việc đó quả là vượt quá sức bác.
Với mớ tóc vàng óng, Rô-da lớn như thổi, đẹp lộng lẫy, nhưng phải
cái nhẹ dạ, bác Hân-bơ đau khổ vì cái tính di truyền này.
Tuần lễ trước, nó đưa về một chàng trai, tuần lễ này lại là đứa khác:
toàn cánh thợ đúc ở đây. Không phải bác ghét thợ thuyền - vì như vậy khác
gì mình tự ghét mình mà là bác ghét cuộc sống khổ sở của người thợ nơi
đây.
Tối nay ở quán rượu về, Hân-bơ vừa rờ rẫm châm được ngọn đèn thì
thấy Rô-da dẫn về một anh chàng và giới thiệu luôn với bố:
- Bố ơi, anh Tô-mát, bạn con đến thăm bố, cũng là thợ...
- Thợ à? - Bác Hân-bơ nhìn Tô-mát trừng trừng.
Tô-mát khá điển trai, dáng dấp như một công tử con nhà quyền quý...
- Anh bảo anh là thợ?
- Dạ, thưa bác vâng ạ! - Tô-mát lễ phép hơi cúi đầu, một tay để vào
ngực mình - Cháu là thợ rèn dao.
Hân-bơ trố mắt nhìn chàng trai.
- Thợ rèn dao à?
“Chú thỏ non kia đừng hòng lừa được lão cáo già này.” Hân-bơ đặt ra
một vài câu hỏi về ánh lửa thép, về quặng, về than và phải chịu phục Tô-
mát có tay nghề giỏi. Chỉ cần đôi mắt thôi - chứ không cần đến nhiệt kế -
Tô-mát có thể ước đoán chính xác nhiệt độ trong lò và nước thép khi nào là
được.
- Chắc anh không phải là người vùng này?