chuyến hải trình bằng việc quay mòng mòng quanh chỗ buộc neo khi con
kéo buồm lên. Hãy kéo buồm lên, kéo cao trên thân cột buồm cho đến khi
buồm căng ra, để mặc nó nhảy nhót thỏa thích trong cơn gió.
Sau đó hạ tấm ván chống trôi dạt xuống, kiểm tra bánh lái xem nó có
chắc chắn không, cuối cùng quay lại, ngắm nhìn con thuyền cho đến khi
hình ảnh của nó in sâu trong tâm trí, đến nỗi ngay cả những khi đang nhắm
mắt con vẫn có thể nhìn thấy con thuyền thật rõ ràng.
Luôn nghĩ đến việc con thuyền sẽ đi như thế nào trên biển, nó ngụp
lặn và băng mình về phía trước ra sao. Để tâm lắng nghe âm thanh của cơn
gió rì rào, cót két trong những mối nối, âm thanh soàm soạp nhẹ nhàng của
sóng nước vỗ vào thân thuyền. Nắm chắc cần lái để cảm nhận sức nặng của
bánh lái trong tay, như thế con sẽ dễ điều khiển cần lái hơn.
Nhớ đổi hướng thuyền, bẻ lái cắt góc, nhanh chóng di chuyển khi nhận
thấy con thuyền có dấu hiệu nghiêng đi. Kiên nhẫn chờ cho đến khi con
nhận thấy mình không thể tách rời con thuyền, như thể nó là một phần của
chính con vậy. Khi con, chiếc thuyền và cơn gió đã hòa thành một thực thể
duy nhất thì cũng là lúc con đã sẵn sàng để lái thuyền.” Có thể gọi đây là
một bài thuyết giáo dù bản thân nó còn khá nhiều thiếu sót.
Và ở một khía cạnh nào đó nó đề cập đến những mâu thuẫn thường
xảy ra giữa bố mẹ và con cái. Tôi cho rằng nếu rơi vào tình huống tương tự,
con trai tôi sẽ hành động như cha nó: bồn chồn lo lắng trên ghế, nhắm mắt
lại và thầm hy vọng bài thuyết giáo sẽ không quá dài. Nó cần một người
khác dạy nó lái thuyền, và tôi cay đắng nhận ra rằng tôi càng muốn dạy nó
bao nhiêu thì lại càng không thể trở thành thầy của nó.
Tôi ngồi trên khoang thuyền khá lâu, ngắm những đụn cát nhạt nhòa
chung quanh đang dần hòa làm một với bầu trời. Tôi biết rõ về cái hồ này,
nếu không muốn nói là hiểu rõ đến tận chân tơ kẽ tóc. Nó được hình thành
khi những dòng sông băng cuối cùng chảy qua, cách nay khoảng mười