con tàu nhỏ cũ kỹ. Con tàu này vốn loang lổ những mảng bong tróc và sét
gỉ này đã được chủ nó - một người bạn của chú Ed sửa chữa tạm thành
chiếc thuyền buồm trước khi tặng nó cho chú.
Khi tôi còn đang trố mắt lên nhìn với một vẻ kinh ngạc thì chú vỗ vỗ
vào mạn thuyền và cười nói với tôi rằng từ nay, nó thuộc về tôi. Chiếc
thuyền nhìn sơ qua trông có vẻ ổn với một cột buồm và sào căng buồm,
duy chỉ có một thiếu sót, đó là không có vải buồm.
Tôi nói điều đó với dì tôi - một thợ may giỏi, và dì đã nhiệt tình giúp
tôi bằng cách dùng một cặp drap trải giường nối lại với nhau. Tuy nó không
được bền chắc như vải bông Ai Cập, loại vải may buồm được ưa chuộng
thời đó, nhưng trông nó cũng khá phù hợp với chiếc thuyền của tôi. Một
cảm giác sung sướng bất chợt dâng lên trong lòng khi giờ đây, tôi đã phần
nào chạm đến ước mơ - tôi đã có một chiếc thuyền buồm của riêng mình,
và tôi gọi nó bằng một cái tên đầy ngẫu hứng: Chiến Hạm Đỏ.
Lần đầu tiên ra khơi trên chiếc thuyền mới, chú Ed và tôi căng buồm
đi vòng quanh đảo Cây Sồi, một hải trình mà có lẽ suốt đời tôi không thể
quên. Chúng tôi lướt qua mặt nước chỉ cao khoảng 1,5 mét so với đầm lầy
phía dưới và có thể lắng nghe được cả cơn gió mặn đang rì rào trong đám
sậy. Tại bờ Bắc của hòn đảo, chú Ed chỉ cho tôi thấy một đôi chim gầy
guộc lưng đen, có đuôi trắng xòe ra đang lượn hình vòng cung.
“Đó là loài chim có cái tên rất lạ: “Scissor-bills”, chú bảo. “Chú đã
thấy nó ở đây từ khi còn nhỏ, và chú cho là nó đã ở đây cả triệu năm rồi
không chừng.”
Sau ngày hôm đó, tôi đã có thể tự đi thuyền một mình. Khi mùa hè tới,
chúng tôi đi từ cảng này sang cảng khác dọc theo Hỏa Đảo trên chiếc
thuyền có gắn động cơ của chú Ed, tất nhiên kéo theo cả chiếc Chiến Hạm
Đỏ phía sau.