cơn chấn động. Và qua tiếng kêu răng rắc của nó, tôi biết thân thuyền đã bị
thủng. Tôi quỳ xuống sàn và săm soi phía dưới khoang.
Mặc dù không nhìn thấy rõ, nhưng tôi có thể nghe được tiếng nước bì
bõm tuồn qua cái khe bị nứt toác dưới đáy thuyền. Con thuyền tròng trành
trong cơn gió, dần dần chìm xuống. Tôi nhanh chóng hạ thấp cánh buồm
tam giác và đứng trên mạn thuyền trước, vẫy tay cầu cứu một cách điên
cuồng. Và con thuyền đánh cá, con thuyền mà tôi đã cố tránh, giờ đây ở
cách tôi vài trăm mét. Người chủ thuyền nhìn thấy tôi đang trong cơn nguy
hiểm, liền tắt máy và hỏi to: “Chuyện gì đã xảy ra với cháu vậy?”.
“Cháu đang bị đắm!”
Không chút chần chừ, ông lái chiếc thuyền đánh cá đến gần thuyền tôi
hết mức có thể, và ném cho tôi một sợi dây. Tôi nhanh chóng bắt lấy và
buộc chặt nó xung quanh gốc cột buồm của mình. Một lúc sau, tôi đã bình
yên đứng trên đuôi của chiếc thuyền đánh cá, hướng về phía đất liền với
“Nữ hoàng” màu xanh được kéo theo sau.
Con thuyền vẫn chưa hết tròng trành nhưng không hiểu tại sao nó vẫn
nổi được. Khi chúng tôi đến xưởng đóng tàu, những người thợ nhanh chóng
kéo nó lên, đục khúc gỗ ra khỏi cái lỗ dưới đáy và hong cho thuyền khô.
Đúng lúc đó, thuyền trưởng nhìn thấy chiếc thuyền màu xanh của tôi phơi
mình trên cạn, ông liền chèo ghe qua con lạch hẹp nối nhà ông với xưởng
đóng tàu.
Ông đưa tay rờ rẫm dọc thân thuyền đã bị vỡ, rồi xoa xoa cái cằm lởm
chởm râu, sau đó quay sang tôi hỏi: “Có chuyện gì xảy ra vậy?”
Tôi thuật lại cho ông mọi chuyện, rằng tôi mải mê quan sát con tàu
đánh cá ở phía xa nên đã không nhìn thấy khúc gỗ nổi ngay dưới mũi
thuyền. Tôi những tưởng ông sẽ dạy cho mình một bài học ngay tại chỗ về
những thứ trôi dạt trên biển: hàng hóa bị vứt xuống biển cho tàu nhẹ bớt,