vài miếng lác ướt. Tôi sực nhớ đến nét chữ trong bức thư của ông ta: Tệ
quá! Viết trật văn phạm, khó đọc, “con cua con còng” như tuồng chữ trẻ
con lớp đồng ấu! Tôi nghĩ thầm:
- Chắc hồi ở bên “mẫu quốc” ông ta làm củi, ban bù... Sau vài phút ăn
nói xã giao, tôi được nghe ông Phô Nô trình bày tiểu sử và thành tích chiến
đấu. Hồi Âu Châu đại chiến 1914-1918, ông ta làm lính giữ súng đại bác 75
ly, rủi bị thương nhẹ nên ông tra trở thành “ân nhân của tổ quốc” được ưu
tiên qua thuộc địa, lãnh chức kiểm lâm.
Ông ta gật gù:
- Ở đây sướng quá. Làm ít công việc mà ăn lương hơi nhiều.
Tôi hơi bực dọc, nói mơ màng:
- Đó là tình trạng chung. Xứ tôi, mọi người đều làm ít nhưng cũng ăn
no đủ mặc dầu thiếu chất bổ.
Ông Phô Nô mỉm cười bí mật, mời tôi ở lại ăn cơm Tây: ngon quá,
món nào cũng lạ miệng. Nhứt là đồ gia vị nào hột cải, dầu ô liu, dấm tây
trộn cải xa lách. Vừa ăn ông ta vừa hỏi đến sự sanh hoạt của nông dân. Tôi
trả lời:
- Nói chung, ai nấy đều sung sướng.
Ông Phô Nô trố mắt:
- Thiệt vậy à? Họ chưa ăn bít-tết, ra-gu.
- Thưa ông, dân ở vùng nước mặn đồng chua có bốn thức ăn sang
trọng. Đó là lươn, ếch, rùa, rắn! Cá, tôm, thịt bò, thịt heo là món hơi nhàm.
Ông Phô Nô gật đầu: