Nguyễn Vương ra lệnh cho quan Lưu trấn chiêu tập nhóm dân phiêu bạt,
quan binh của Tây Sơn còn trốn tránh, cho về trình diện và ghi vào hộ tịch,
và cấp đất đai cho cày bừa để vỡ ruộng làm mùa tại các xã thôn, từ năm Kỷ
Dậu (1789), Vương bổ nhậm quan Điền tuấn Trịnh Hoài Đức mộ dân, cấp
cho ruộng hoang, khuyên bảo hãy gắng sức làm ruộng, người nào không
theo nghề nông, thì đi lính để thay cho phủ binh.
Thuyền buôn của người Trung quốc, các nước Đông và Tây dương đến
buôn bán tại Nông Nại Đại Phố (nay là Cù lao Phố). Theo Hứa Hoành, là
một trong bốn thương cảng tấp nập và phồn thịnh nhất thời bấy giờ.
Nguyễn Vương Phúc Ánh lên ngôi xưng đế hiệu là Gia Long, đặt quốc hiệu
là Việt Nam.
Lúc bấy gìờ, Biên dinh vẫn còn là một trấn, nhưng được mang danh hiệu là
Biên Hòa thống thuộc Gia định thành, được xem là hệ trọng nhất. Vì là
phần đất màu mỡ mới thu phục của Thủy Chân Lạp nên triều đình rất chăm
lo, đặt để đầy đủ các quan chức để an dân hưng quốc.
Từ đầu bổn triều được đặt tại thôn Phước Lư (cầu Rạch cát) đến năm 1815,
được dời về thôn Tân Lân (khu chợ Bình Trước hiện nay) để mở rộng châu
vi thị trấn.
Biên Hòa ngoài việc nổi danh "xứ bưởi" (được giải thưởng hội chợ Osaka,
Nhật bản) còn được gọi là miền đất dưới đâm hà bá, trên phá sơn lâm (khai
thác cát, đá, gỗ, và đất sét để làm gạch, đồ gốm mỹ nghệ còn là thắng cảnh
núi, thác và suối, gần Sàigòn có nhiều du khách. Một tỉnh vừa giàu có về
lâm sản lẫn thủy sản, hải sản (quận Nhơn trạch).
Dinh Chánh tham biện (Tỉnh trưởng), nguyên là một nhà nhỏ, cất hồi năm
1902, sau được cơi lầu, chỉnh trang năm 1922, thời tỉnh trưởng A.G. Sartor.
Đến tỉnh trưởng Nguyễn Hữu Hậu (1950), ao sen và lục bình ở bờ sông
được lấp để phóng nối dài con đường Trần Thượng Xuyên (mang tên Quai
de Lanoue từ năm 1896), để mở cổng vào dinh do ngả mặt tiền. Cầu mát ở
trước dinh tỉnh trưởng gọi là Cầu quan, chỉ dành cho các quan lớn, ngày lễ
ra xem các cuộc vui tổ chức trên sông như chưng thủy lục (ghe hoa đăng),
đua thuyền, đua bơi lội , thả vịt v.v...