kỳ chải chuốt nhưng bao hàm ý vị, đầy vẻ nên thơ. Cái đáng nói là khi cô
thợ in bị bí lối, hoặc anh chèo ghe tịt ngòi thì cô hay anh khác nhảy vào
trận để "cứu bồ" liền. Ngộ nghĩnh và đáng khen ở cái tình đồng đội chặt
chẽ đó.
Tiếc rằng những thú vui tao nhã như thế đã diễn ra tôi còn là cậu bé mới
học lớp nhì trường làng, chưa thưởng thức hết cái hay của nó để ghi hết vào
lòng, nên chẳng còn nhớ được bao nhiêu hầu cung hiến các bạn. Chỉ còn
nhớ rõ là khi trời sụp tối, cơm nước xong, tôi và các bạn nhỏ không đêm
nào không có mặt ở sân in để nhảy chắn chậu, phụ bưng đất sét với mấy chị
thợ in, hoặc để cười hùn với các chị cho thêm rậm đám.
Mười lăm năm sau... Vì phải lên Sài Gòn, rồi xuất ngoại du học nên tôi
vắng làng trong thời gian lâu. Khi trở về làng cũ, việc tôi làm trước nhứt là
lên thăm những lò gạch cũ. Tim tôi se lại, nước mắt tuôn trào khi đứng
trước cảnh điêu tàn, sụp đổ phủ phàng. Những lò gạch xưa kia, khi được
đốt lên đã hùng hổ phun khói lửa tận mây xanh không thua những hỏa diệm
sơn trong cơn giận dữ, nay chỉ còn là những đống gạch vụn, phủ đầy rêu
xanh, cỏ dại, chỉ để làm ổ cho chuột bọ rắn rít. Vì cạnh tranh không lại
những lò gạch tối tân chạy bằng cơ khí, năng xuất cao, phẩm chất tốt, giá
thành lại rẻ, nên những chủ lò đành đóng cửa lò gạch, dẹp sân in để chuyển
sang nghề khác.
Đang ngậm ngùi cho số phận hẩm hiu, nhưng có một quá khứ nên thơ của
những lò gạch cũ, bổng dưng tôi nghe một giọng hát quen thuộc từ trong
mái tranh rách nát theo gió thoảng ra. Tọc mạch, tôi đẩy tấm phên tre xiêu
vẹo dùng làm cửa, rón rén bước vào nhà. À, té ra là nhà chị Nữ, một chị thợ
đập đá kiêm thợ in ngói, một thôn nữ dịu hiền, có giọng hò hay nhứt nhì
trên sân in của bà ngoại tôi. Thấy tôi chị lật đật bồng đứa nhỏ vừa lên một
tuổi rối rít mời tôi ngồi ghế chơi, theo thế quen miệng. Thật ra, nhà chị chỉ
có cái bàn cũ rích và một cái chỏng tre vừa dùng làm giường ngủ, bàn ăn và
cái sân chơi cho mấy đứa con chị. Sau những câu thăm hỏi thường lệ, tôi
khen chị một câu:
- Chị bây giờ cũng còn hò hay như cũ!