thôi, cái bền chí nhìn rất dễ mê, nhưng mê nhứt là mũi tên xanh bắn xuống
nước nhanh như chớp, mỗi khi thằng chài trông thấy con mồi.
Thằng Cộc là một đứa bé bạc tình. Một đàn cò lông bông bay qua đó, đủ
làm cho nó quên thằng chài ngay. Là vì đầu cò chởm chởm những cọng
lông bông, nhắc nhở nó những kép võ hát bội gắn lông trĩ trên mão kim
khôi mà nó đã mê, cách đây mấy năm, hồi gia quyến nó còn ở trên làng.
Hồi ấy nó sướng lắm. Quanh nhà nó, có hàng trăm nhà khác, có vườn cây
trái, có nước ngọt quanh năm, có trẻ con để nó làm bạn, để nó đùa giỡn.
Nhưng không hiểu sao một hôm tía nó bán chiếc chòi lá đi, rồi ông nội nó,
tía nó, má nó và nó, một đứa bé mười tuổi, kéo nhau xuống một chiếc
xuồng cui, một thứ xuồng to mà người ta gọi là xuồng mẹ, ghe con. Rồi họ
đi lang thang từ rạch hoang vắng nầy đến kinh hiu quạnh nọ, và rốt cuộc
dừng bước nơi cái xó không người nầy mà ông nội nó đặt tên là xóm Ô-
Heo.
Nghĩ đến những năm cũ, thằng Cộc bỗng nghe thèm người vô cùng, thèm
còn hơn là thèm một trái xoài ngọt, một trái khế chua mà từ năm năm nay
nó không được nếm.
Những người di cư năm nọ trên chiếc xuồng cui vẫn còn sống đủ cả.
Những chiều nghi ngút sương mù từ đất lầy bốc lên, và những đêm mưa
gào gió hú, những người ấy kể chuyện cho Cộc nghe, những chuyện ma rởn
óc như ăn phải trái bần chua. Nhưng dầu sao, Cộc cũng thích người khác
hơn, cũng như nó thích vườn tược sầm uất hơn cảnh rừng tràm tối mịt hoặc
cảnh đồng không bát ngát ở đây. Ở đây, cho đến tiếng chó sủa, tiếng gà gáy
nó cũng không nghe từ lâu. Con chó săn và mấy con gà giống mang theo,
đã ngã lăn đùng ra mà chết ngay trong tháng mới tới. Thằng Cộc ngạc
nhiên mà thấy sao người vẫn không chết trong khí hậu tàn ác nầy: nóng,
ẩm, còn muỗi mòng thì quơ tay một cái là nắm được cả một nắm đầy.
Chưa bao giờ mong mỏi của Cộc được thỏa mãn mau lẹ như hôm nay. Nó
vừa thèm người thì tiếng hò của ai bỗng vẳng lên trong rừng tràm, rồi tiếp
theo đó là tiếng chèo khua nước:
Hò ơ... tháng ba cơm gói ra hòn,
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai.