Một vệt sáng lờ mờ rọi phớt trên mặt hắn.
Khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, vẻ tuấn tú đến gần như đặc biệt vì nó lạnh
băng băng.
Bên ngoài, ánh sáng yếu ớt của thời gian quá buổi hoàng hôn thâm sậm,
gió ì ào giật mạnh từng cơn.
Người đàn bà đứng dậy, bà ta không vén màn mà lại dùng hai bàn tay
khẳng khiu xé tẹt làm đôi và thò tay vào trong bưng ra một cái tráp sắt đen
nhám sần sùi.
Trên bệ thờ có một thanh đao. Vỏ đao đen thui, cán đao cũng đen - hình
như ở đây cái gì cũng đen, màu đen tang khổ.
Không, còn có một màu khác nữa vừa được lộ ra, khi lưỡi đao bửa vào
khoen tráp sắt: lưng lưng tráp sắt một thứ bột màu hồng sậm.
"Hồng sậm", hay nói cách khác là đỏ tươi.
- Biết cái gì không?
Người đàn bà bốc một nắm bột đỏ, mấy ngón tay còm cỏi cử động, chất
bột đỏ lọt qua khẽ tay, rơi trở vào trong tráp, tự nhiên, không ai biết cả.
Bà ta hỏi, nhưng chắc chỉ một mình bà ta biết, gã thiếu niên làm thinh,
chính hắn cũng không hề biết.
- Tuyết, hồng tuyết, tuyết đỏ!
Lạ chưa? Tuyết màu trắng và tan ra nước, nhưng tuyết ở đây màu đỏ và
đã thành ra bột.
Giọng của người đàn bà the thé như tiếng quỉ khóc giữa đêm đông:
- Lúc ngươi sinh ra, tuyết đã đổ rồi, máu đã nhuộm làm cho tuyết từ đó
không còn trắng nữa!
Gã thiếu niên áo đen cúi đầu thật thấp.
Người đàn bà lại vốc tuyết vào tay, bà ta xoay mình lại, bước tới, vốc
tuyết được đổ xuống đầu, xuống vai gã thiếu niên một màu đỏ ối.
- Ngươi hãy nhớ cho kỹ, từ đây trở đi, ngươi là thần - Thần báo hận cừu.
Bất luận ngươi làm gì, cũng không hề hối hận; bất luận đối xử với họ như
thế nào, cũng đều là phải!
Giọng nói đầy dẫy sự tự tin thần bí, phảng phất như đem tất cả những lời
nguyền rủa với thánh thần, với ác quỉ trộn nát vào vốc tuyết máu và phủ cả