suốt như thời thường do đó ảnh hưởng đến sự quyết định sau cùng.
Trước giờ chết con người có những thái độ khác nhau bởi cá tính con người có
lắm thứ chính trong giờ lâm tử ấy những khuynh hướng thiên nhiên lại phát hiện
ra một cách rõ rệt. Giữa thái độ của một người mộ đạo xưa nay nhờ ân sủng mà
có một lòng tín ngưỡng mãnh liệt, thản nhiên chờ đón tử thần tước sang cõi
thiên đàng và thái độ của người vô thần bất trị, đến giờ chót vẫn không chịu tin
ở đạo, chúng ta còn thấy lắm thái độ khác nhau. Có người tính vốn hiền lành,
xưa giờ không biết đạo hạnh là gì nhưng trước giờ chết chỉ vì không muốn làm
buồn lòng người thân quyến nên nghe theo lời họ mà trở lại đạo. Lại có lắm
người lưng chừng, suốt đời lưỡng lự nan phân, nửa muốn sống theo đà những
thị dục của mình cho thỏa thuê, nửa sợ những hình phạt ở địa ngục nên lúc gần
chết họ trở lại đạo, vì muốn “ăn chắc” họ đánh cuộc theo lối nhà triết học Pascal
dạy tức là cứ tin theo thuyết có thần thánh có thiên đàng đi, vì lỡ không có cũng
chẳng thua thiệt gì.
Có những triết gia suốt đời sống một cách thanh thiện đúng theo lề luật của đạo
nhưng lúc gần chết họ vẫn hoài nghi sự bất diệt của linh hồn bởi cái vũ trụ vô
biên họ nhận thấy con người chẳng qua là một hạt bụi, và họ xét rằng linh hồn
có vĩnh cửu bất diệt hay chăng, đó cũng không phải là điều đáng kể. Lúc lâm
chung những người ấy rất có thể nhận chịu đủ các phép theo nghi thức đạo chỉ
vì họ muốn giữ đúng lễ. Lại có những người tầm thường và đây là số đông, suốt
đời cố tình gạt bỏ qua một bên cái lòng tín ngưỡng hồn nhiên mà họ đã tiêm
nhiễm tử thuở bé để rồi đến giờ chết lại bám víu vào đó.