chúng ta sẽ nghiên cứ đến.
Những chu kỳ sinh lý:
Có những chu kỳ chỉ thuộc phạm vi sinh lý. Ở trường hợp này, nền tảng của nó
là một cảm giác. Người ta thường thấy những chu kỳ thuộc loại này trong đời
sống của loài vật và ở những trẻ con.
Một cảm giác sơ đẳng có thể đồng thời gây ra một cảm xúc ở địa hạt tinh thần
và một phản ứng ở địa hạt thể chất, để rồi đi đến một tri giác.
Cảm giác => Cảm xúc => Phản ứng sơ đẳng => Tri giác.
Thí dụ chúng ta lỡ uống lầm một thứ nước đắng, chúng ta bị một cảm xúc khó
chịu và liền sau đó, một phản ứng làm chúng ta mau mau nhả chất nước ấy ra.
Chúng ta đã nhận thức rằng mình vừa làm một việc không hay.
Người ta mời anh ngồi xuống một chiếc ghế phô tơi êm ả. Cái cảm giác mà anh
nhận thấy khi ngã mình trên chiếc ghế ấy gây cho anh một cảm xúc dễ chịu, êm
ái và đồng thời một phản ứng làm cho anh biết duỗi thẳng tay để giãn xả các gân
thịt cho nó nghỉ ngơi. Và anh nhận thức rõ rệt tác động ấy.
Những chu kỳ tinh thần:
Những chu kỳ tinh thần chỉ huy các công việc thuộc về trí thức, cảm tính không
dự phần vào những chu kỳ này. Nó khởi đầu bằng một tri giác hoặc một hồi
tưởng rồi bước sang một truy tưởng để rồi kết thúc ở một ước lượng.
Tri giác/Hồi tưởng => Truy tưởng => Ước lượng.
Cũng nên nói rõ: cái chu kỳ tinh thần thuần túy rất hiếm. Vì thực ra ngay trong
những công việc làm bằng trí thức luôn luôn cũng có ít nhiều bẩm chất thuộc
cảm tính xen vào. Một tiểu thuyết gia chẳng hạn khó mà che đậy cá tính của
mình sau những nhân vật trong tiểu thuyết mà họ đã tạo ra. Vả chẳng thường khi
chúng ta làm những công việc trí thức bởi ham thích (bẩm chất ham muốn) bởi
yêu thích (bẩm chất lòng nhân), hoặc bởi những thị hiếu hoặc thói quen của
chúng ta.
Một thí dụ về chu kỳ tinh thần: một nhà văn định diễn tả một cảnh vật mà ông
đã từng trông thấy. Với óc tưởng tượng ông đã xếp đặt, tô điểm để gợi ra một
cảnh trí mới. Trong khi ấy ông cũng dùng đến óc phán đoán để ghi rõ một vài
nét có thể làm nổi bật cảnh trí ấy, hoặc dùng óc phán đoán để thích ứng, để lồng