vỡ nhanh hơn ta nghĩ. Nhưng để điều này không xảy ra, sức mạnh kỹ
thuật phải nằm trong tay một kiểu người mới.
Thời xưa, nhận ra sự vô thường của thế gian thường đưa người ta
đến chỗ “xa lánh bụi trần”. Một mặt, các nhà tu khổ hạnh, thầy tu, và
ẩn sĩ cố diệt dục để nhìn thế gian bằng sự nhẫn nhục từ bi, hay ngày
càng lui vào những tầng sâu tâm thức để hòa nhập hoàn toàn với Ngã
trong trạng thái đại tịch lặng và vĩnh hằng. Mặt khác, một số người lại
cảm thấy rằng cõi đời là một trạng thái thử thách, nơi của cải vật chất
phải được dùng trên tinh thần cần kiệm, như những khoản vay từ
Thượng đế, và việc quan trọng nhất ở đời là một lòng tận tụy yêu
thương Thượng đế và con người.
Thế nhưng, cả hai phản ứng này đều dựa trên giả định ban đầu
rằng cá nhân là bản ngã tồn tại riêng lẻ, và vì giả định này là tác phẩm
của tình thế tiến thoái lưỡng nan nên bất kỳ nhiệm vụ nào được thực
hiện trên cơ sở này - kể cả tôn giáo - cũng sẽ là thất sách. Chính vì từ
đầu nó đã là một trò chơi khăm nên bản ngã cá nhân chỉ có thể có một
phản ứng giả dối với cuộc sống. Bởi nếu chỉ theo cái nhìn của kẻ đứng
ngoài - như thể là ai đó hoàn toàn khác chứ không phải chính y - thì thế
giới là một ảo ảnh vẫn mãi khó nắm bắt và vẫn mãi gây thất vọng, mà y
cứ cố níu kéo. Không có sinh và diệt, và không có sự chuyển hóa bất
tận các hình thái sống, thế giới sẽ tĩnh tại, phi nhịp điệu, phi vũ điệu,
giống như bị ướp khô.
Nhưng phản ứng thứ ba thì khả dĩ. Không xa lánh thế gian, mà tận
lực hợp tác với thế giới trong hiện tại. Ở tầng cấp này, thế giới được
tiếp nhận như một hệ thống hài hòa chứa đựng trong nó các xung đột,
như một quá trình toàn vẹn vĩnh cửu, và là Ngã đích thực duy nhất của
chúng ta. Nhận thức này đã tồn tại trong chúng ta theo nghĩa là thân thể
ta biết nó, xương, thần kinh và các giác quan của ta biết nó. Nhưng có
vẻ như chúng ta không biết nó, chỉ bởi tia sáng chú tâm có ý thức mỏng
manh của ta đã được chỉ dạy bỏ qua điều này, và được dạy kỹ đến mức
chúng ta quả thực đã thành những đồ giả chính hiệu.