Tôi ngắm mãi những thành phố ấy, những phố hẹp bên những mặt nhà
héo khô vì già lão, những biển quảng cáo chiếu bóng sặc sỡ và đá cẩm thạch
nứt nẻ trong những bồn phun nước vỡ, những cây ô liu xù xì như đúc bằng
thiếc xốp trong các vườn, và nghĩ rằng có thể, trong thành phố kia tôi đã có
một trái tim gần gụi trái tim kia cũng êm dịu như hơi ấm của bên má nhỏ bé
và rực đỏ của cô thôn nữ nọ. Và nếu như trong cuộc sống có lúc nào lòng tôi
trĩu nặng thì trái tim hồn nhiên kia sẽ chẳng khi nào từ chối giúp đỡ và an ủi
tôi.
Tôi tin chắc ở điều đó. Và niềm tin đó làm cho cuộc sống trở nên vô cùng
nhẹ nhàng.
Trên đường về, xe lửa từ Rôma đến Nêapôn vào đêm khuya. Gió biển ấm
áp thoảng mùi dầu hỏa thổi vào các cửa sổ bỏ ngỏ của toa tàu. Trong những
ngôi nhà chật hẹp dọc đường sắt tất nhiên đã không còn ánh sáng và chỉ ở
trong trạm gác đường rực đèn còn một thanh niên có râu và khuôn mặt của
Yvơ Môngtăng
đang ngồi trên bậc cửa chơi măngđôlin.
Đó là ấn tượng cuối cùng của tôi về Nêapôn.
Xe lửa ra thẳng bến tàu và tàu lập tức rời bến. Trong ánh sáng chói lọi của
những cây đèn lồng từ trên boong tôi nhìn rõ chỗ ngồi của những chị, những
cô bán hàng ban ngày trên đại lộ Bờ Biển. Tôi chăm chú nhìn vào đó, không
dám thú nhận với mình rằng tôi đang chờ một sự mầu nhiệm, tôi đang chờ
cho trên con đường hiu quạnh kia bỗng hiện ra cô thôn nữ bận váy xanh viền
ren và cô sẽ chạy trên bến đuổi theo con tàu lúc đó đã chậm chạp lấy mũi
thép cắt màn đêm tăm tối và nước vịnh màu đen.
Trong giây lát tôi tưởng chừng đã như thấy bóng dáng lờ mờ một thôn nữ.
Nhưng đó chỉ là một trong vô vàn những cái bóng mỏng manh thường có
trên bến cảng về đêm.
Tôi ngồi trên boong cho tới tận bình minh, mãi đến khi những ánh đèn
đảo Xacđinhơ hiện ra trong nước biển bao la đang dần xanh lên màu da trời
nhợt nhạt.