Bà cố cắn chặt góc chiếc chăn xám cũ kỹ và lẩm bẩm: "Trời, sao thế này?
Sao thế này?" và từ trong cuống họng thỉnh thoảng lại bật ra một tiếng nấc
thường có ở những người cố giữ nước mắt.
Ngày hôm đó qua đi như thế nào bà Vácvara cũng chẳng nhớ nữa. Ngày
hôm đó xám, ẩm thấp và có bão. Những ngày đông như vậy qua đi rất mau.
Chẳng ra là đã có những ngày ấy mà cũng chẳng ra là không có. Biển cứ
kiên nhẫn gầm thét mãi. Gió vặt bụi cây khô trên những mỏm đá biển, tung
mưa đi thành từng giải.
Đến đêm, trong tiếng ầm ì của biển, một tiếng sấm nặng nề xông vào, còi
và đại bác rú rít, những tiếng nổ ầm ì, tiếng vọng của súng liên thanh dội vào
vách núi. Ông Êgo chạy lại lều bà Vácvara và nói lớn với bà câu gì trong
bóng tối. Nhưng bà chỉ hiểu ông Êgo nói gì khi nghe thấy cả cái đêm rét
mướt bất thần vang dậy tiếng "xung phong"
kéo dài ở xa. Tiếng kêu ấy lớn
dần, lăn dọc bờ bể, ùa vào trong các phố hẹp của khu Karantin, lăn theo các
bậc thang xuống thành phố.
-Quân ta!
Ông Êgo kêu lên và cái yết hầu vàng vàng nơi cổ ông rung lên. Ông khóc
rưng rức, cười ha hả, rồi lại khóc rưng rức.
Trời vừa sáng thì quân đổ bộ Liên Xô đã chiếm được thành phố. Cuộc đổ
bộ sở dĩ thành công là nhờ những đồng chí phi công đã ném bom tiêu diệt
trọng pháo Đức.
Đó là những gì ông Êgo kể lại cho bà Vácvara nghe. Giờ đây ông quanh
quẩn dưới bếp nhà bà, đun trà cho bà.
- Ra thằng Vania nhà tôi cũng thế...? - Bà Vácvara hỏi ông và giọng bà
đứt quãng.
- Vania là một ông thánh. - Ông Êgo nói, giờ tất cả trẻ con trong thành
phố này là cháu bà. Một gia đình lớn! Chính Vania đã cứu chúng khỏi chết.
Bà Vácvara quay mặt vào tường và lại khóc nhưng bà khóc rất khẽ nên
ông Êgo không nghe thấy.