Nhưng bà đã nhầm. Những người mặc quần áo xám, lạnh cóng đã tụ tập
bên những bức tường.
Bà Vácvara không dám nhìn thẳng vào mắt họ. Bà không ngẩng đầu lên
và chờ đợi mãi những tiếng la hét giận dữ. Nếu không bà đã nhìn thấy thành
phố quê hương của bà biến đổi như thế nào. Bà sẽ nhìn thấy những mái đầu
run rẩy, những bộ tóc khô héo, những vết nhăn đầy bụi và những mi mắt
mọng đỏ.
Bà Vácvara đứng lại bên cột dán áp phích, nấp vào sau cột và rúm người
lại, chờ đợi. Tay bà vò nát chiếc ví lụa cũ kỹ, trong đó chẳng còn vật gì khác
ngoài chiếc khăn tay và chìa khóa lều.
Những mẩu áp phích lơ lửng bám lấy cột. Chúng báo tin những sự kiện
như đã xảy ra cách đây hàng nghìn năm; những bản giao hưởng của
Sốtxtakôvich, những buổi biểu diễn của nghệ sĩ ngâm thơ Iakhôntôp.
Người ta vẫn cứ im lặng và hấp tấp đổ về. Yên lặng đến nỗi tiếng sóng
đập vào bờ còn vọng đến tận phố chính. Sóng đập vào con đê chắn, tan ra
thành bọt xám và bốc lên tận những đám mây đen, lăn ra xa rồi lại vỗ nước
mặn vào đê.
Rồi đám đông bỗng thở dài, rùng mình và dịch về phía vỉa hè. Bà Vácvara
ngước mắt lên.
Sau lưng những người đứng chắn trước mặt, bà không trông thấy con
đường nhựa. Bà trông thấy những chiếc mũ lưỡi trai xám, những nòng súng
trường ở đàng xa. Tất cả những vật đó từ từ dịch lại gần, hơi đung đưa và
nghiến ủng ken két.
Bà Vácvara vòng tay ôm chặt lấy cột, ngả hẳn người về phía trước, cái cổ
gầy guộc vươn ra.
Có người nào nắm lấy khuỷu tay bà và nói nhanh: "Đừng kêu! Đừng để
chúng nó biết!" Bà Vácvara không nhìn lại, mặc dầu bà nhận ra tiếng ông
Êgo.
Bà chăm chú nhìn cái đám đông tối xầm kia đang tiến lại gần. Giữa đám
áo choàng xám nổi bật lên bộ quần áo phi công màu xanh. Bà Vácvara nhìn