cứt ấy vào phòng khách nhé.”
Bất hạnh thay, Clay chẳng suy nghĩ kỹ được chuyện gì nữa. Nó nằm
bất tỉnh ở bệnh viện Portland General ba tuần. Bác sĩ chăm sóc nó đã nói
rằng nó sẽ như thế cho đến khi chết, đó chỉ là cuộc sống thực vật. Nhưng
rồi thằng bé lại tỉnh dậy. Nó bị nhũn não. Những ngày cắp sách dưới cánh
tay của nó đã thành dĩ vãng.
Các nhà chức trách không tin bố Clay khi ông nói rằng thằng bé đã
bị thương tích như vậy do ngã cầu thang. Và họ cũng không tin khi ông bảo
bốn cái vết bỏng thuốc lá đã sắp lành trên ngực thằng bé là hậu quả của một
loại bệnh ngoài da nào đó.”
Thằng bé không bao giờ nhìn thấy căn hộ tầng hai ấy nữa. Nó được
chính quyền bảo trợ và được đưa thẳng từ bệnh viện đến thị trấn, ở đó cuộc
đời cậu đã thay đổi. Cậu đã tự đứng lên và xếp đặt lại mọi chuyện. Cậu
không khóc.
Bố nó làm vài lời cam đoan tại trụ sở cảnh sát Freeport, và tại cả
mấy quán rượu ở Freeport. Lão dọa sẽ yêu cầu pháp luật trả lại con cho lão,
nhưng lão đã không bao giờ làm điều ấy. Lão nói yêu Clay, có lẽ lão cũng
yêu nó đấy, nhưng nếu thế thật, tình yêu của lão là một loại nọc độc và vết
thương. Thằng bé tốt nhất là nên tránh xa lão.