Và anh thì đang cố kêu gọi bản năng động vật của đứa trẻ, trong lúc
bồn chồn chờ đợi kết quả thành công của việc ghép tủy.
Bất chấp thời gian gặp mặt chỉ giới hạn trong ba mươi phút, phần
lớn thời gian trong ngày của anh là trong phòng vô trùng. Đó là sự ưu
ái của trưởng khoa Min. Có lẽ vì ông cũng đoán rằng làm vậy sẽ giúp
đứa trẻ có thêm ý chí chiến đấu với bệnh tật, hoặc có thể ông thấy tội
nghiệp cho tình cảnh anh, suốt ngày đứng tì trán vào bức tường kính
phòng vô trùng nhìn đứa trẻ ở bên trong.
Từ giây phút đứa trẻ không thể nói được anh đã kể cho đứa trẻ nghe
câu chuyện của mình.
Anh đã có ý nghĩ rằng đứa trẻ cần được biết bố nó đã nghĩ gì, ở đâu
và sống như thế nào. Rồi đây nó sẽ là đứa trẻ sớm phải sống cuộc sống
không có cha. Giá như sau này đứa trẻ không phải nhớ đến bố nó với
một ký ức mịt mờ thì tốt biết mấy.
Anh bắt đầu từ thời thơ ấu với những ký ức vẫn còn nhớ được. Anh
vừa xoa bóp tay chân cho đứa trẻ, vừa giúp nó vận động nhẹ nhàng và
kể chuyện.
Đột nhiên anh có tâm trạng như một người cha đang để lại những
lời trăng trối cho đứa con ngồi bên cạnh giường mình. Mặt khác, việc
kể cho người mình yêu thương câu chuyện quá khứ cũng khiến anh có
cảm giác như đang bày tỏ tình cảm yêu thương vậy.
Đôi lúc, có chuyện khiến anh thấy nghèn nghẹn. Thỉnh thoảng nhớ
đến một ký ức nào đó, anh bỗng lén mỉm cười hoặc thở dài. Dù là
chuyện gì đi chăng nữa anh cũng kể lại một cách điềm tĩnh và tỉ mỉ,
không hề phóng đại hay khoa trương.
May mắn là khi nghe kể chuyện, khuôn mặt của đứa trẻ như có
thêm sinh khí. Tuy ánh mắt có mệt mỏi, nhưng ánh mắt ấy không hề
rời khỏi anh.
Mười ngày sau khi ghép tủy, đứa trẻ đã có dấu hiệu hồi phục. Đứa
trẻ đang dần dần đi từng bước về phía ánh sáng.