là anh đang tái hiện lại niềm hy vọng khẩn thiết những ngày qua, niềm
hy vọng mong sao có thể đặt Daum vào giữa cuộc sống bình thường
như bao đứa trẻ khác trên đời này.
Đôi khi anh dừng câu chuyện lại và hỏi:
“Tuyết vẫn rơi sao?”
Mỗi lúc như vậy tôi lại mở hé cửa sổ cho anh thấy tuyết đang lặng
lẽ rơi. Tôi chỉ có ý nghĩ rằng đó là sự quan tâm của tôi dành cho anh.
Có lẽ anh đã mong muốn được ngắm nhìn tuyết đầu mùa dù chỉ một
chút thôi, với cảm xúc của một người làm thơ.
“Anh đã hứa với Daum rằng sẽ đi nhà thờ, thế mà anh vẫn chưa đi
được lần nào. Bây giờ thì có lẽ anh phải cầu nguyện. Em hãy dựng anh
dậy một chút.”
Anh chắp hai tay lại với nhau, và tì trán xuống sàn nhà. Lời hứa đó
lớn lao đến thế sao? Ngay cả khi đứa trẻ đã ra đi, chẳng còn ai có thế
kiểm chứng lời hứa đó nữa...
Thời gian chầm chậm trôi qua, tuyết đầu mùa thì cứ rơi không ngớt,
còn anh thì ra đi lặng lẽ trong tư thế đang cầu nguyện.
Anh đã rời bỏ thế gian như thế. Ngay cả con đường cuối cùng cũng
cô độc một cách nghiệt ngã. Đó là nghi thức chỉ có mình tôi và ông cụ
tham dự.
Nghe nói là đầu của người chết phải đặt ở hướng Đông, nhưng tôi
đã cố chấp để đầu anh quay về hướng Tây Bắc mà mai táng anh. Bởi ở
hướng ấy có một đứa trẻ mà đến cả giây phút cuối cùng, anh vẫn vừa
nhớ nhung, rơi nước mắt, vừa chịu đựng nỗi đau đớn và gọi tên nó.
Ba ngày sau, tôi xới tung lớp tuyết đã dâng đến tận đầu gối để rời
khỏi Sarakgol. Tôi không vội vã. Không, tôi khắc ghi cẩn thận tất cả
từng cái cây, từng phiến đá vào trong lòng. Tôi biết rằng đây là con
đường mà một ngày nào đó sau này, một ngày xa xôi tôi sẽ phải cùng
với đứa trẻ quay trở lại.
Đó là giây phút cuối cùng ở một góc núi trước khi Sarakgol biến
mất dần. Giọng nói của anh dường như vang lên từ sau lưng tôi như