lửa”. Quân địch chỉ có thể thọc vào phòng ngự của ta bằng một cái giá tổn
thất to lớn.
Trên hướng Ô-ri-ôn – Cuốc-xcơ, chúng thọc sâu được vẻn vẹn có 9- 12
ki-lô-mét, trên hướng Bên-gô-rốt – Cuốc-xcơ, từ 15 đến 35 ki-lô-mét. Sau
đó, chính phương diện quân Trung tâm và phương diện quân Vô-rô-ne-giơ
đã tự chuyển sang tiến công, đẩy lùi những sư đoàn đã bị tiêu hao, kiệt quệ
của địch.
Trước khi khôi phục lại hình thái cũ của hai bên trước ngày 5 tháng Bảy,
bộ đội hai phương diện quân Tây và Bri-an-xcơ cũng đã bước vào tiến công:
sau khi chọc thủng được phòng ngự của bọn phát-xít Đức, các đơn vị của hai
phương diện quân trên đã tiến như vũ bão về phía Ô-ri-ôn.
Ngày 24 tháng Bảy, khi Bộ tổng tham mưu chuẩn bị nhận lệnh của Tổng
tư lệnh tối cao tổng kết giai đoạn phòng ngư của chiến dịch Cuốc-xcơ,
chúng tôi đã nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra những lời lẽ có sức gợi cảm đủ
mạnh để đánh giá những cái ta đã làm được. Trong vấn đề này, óc tưởng
tượng mạnh bạo nhất cũng đành chịu. Cuối cùng, chúng tôi cũng đề ra được
những dòng sau đây:
“Những trận đánh mà ta đã tiến hành nhằm triệt phá cuộc tiến công của
quân Đức, đã chứng minh nghệ thuật chiến đấu cao của bộ đội chúng ta, đã
nêu những tấm gương chưa từng có về tính ngoan cường, kiên định và lòng
dũng cảm của chiến sĩ và cán bộ tất cả các binh chủng, kể cả các pháo thủ và
các chiến sĩ súng cối, các chiến sĩ xe tăng và các phi công”.
Ngày nay, ta thấy những dòng chữ ấy thật bình thường, lại có vẻ sáo nữa.
Nhưng hồi ấy thì dường như cuối cùng chúng tôi mới tìm ra được những
chữ mình cần tìm. Những chữ ấy vang lên như hồi kèn tiến quân, phản ánh
hào quang của trận quyết chiến, lòng khát khao mãnh liệt của toàn dân xô-
viêt quyết bẻ gãy cuộc tiến công tuyệt vọng và cuối cùng của bọn phát-xít
Đức xâm lược, như chúng tôi hằng tin tưởng lúc đó.
Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đánh giá những kết quả trong giai đoạn
phòng ngự của chiến dịch Cuôc-xcơ là bằng chứng thất bại hoàn toàn của kế
hoạch tiến công mùa hè của quân địch. Như trong bản nhật lệnh đã chỉ rõ,