biểu hiện 69 năm sinh. Nhiều người nâng cầu chúc mừng Sớc-sin, trong đó
có Xta-lin.
Trong những ngày hội nghị bình thường, những người đứng đầu chính
phủ và các thành viên phái đoàn đã lần lượt dùng bữa, khi thì ở chỗ Xta-lin,
khi thì ở chỗ Ru-dơ-ven, khi thì ở chỗ Sớc-sin. Những bữa ăn ấy đều rất
muộn (vào lúc 20 giờ theo giờ Mát-xcơ-va), khi chúng tôi đã ăn tối xong rồi.
Ru-dơ-ven không bao giờ nán lại sau bữa ăn, ông ta thường về ngay trụ sở
của mình, còn Xta-lin và Sớc-sin thì ngồi lâu với nhau để tiến hành cái gọi là
“những cuộc hội đàm không chính thức”. Ngược lại, Ru-dơ-ven thích gặp
Xta-lin vào buổi trưa, trước phiên hội nghi và những buổi gặp gỡ ấy, đã góp
phần không nhỏ làm cho những buổi đàm phán chính thức đạt được kết quả.
Không ai nghi ngờ rằng cơ quan tình báo Hít-le – Tê-hê-ran biết có cuộc
hội nghị này. Tiện thể xin nói thêm là cuộc gặp gỡ long trọng của U. Sớc-sin
đã góp phần không nhỏ vào việc đó. Nhưng bọn Hít-le không dám phá hoại.
Đội canh phòng thực hiện nhiệm vụ rất cảnh giác, và bản thân những người
I-ran là những người có lòng yêu hòa bình, thậm chí nhiệt tình, nhất là đối
với những người xô-viết. Điều đó bắt nguồn từ nguyện vọng của cả hai nước
muốn sống trong hữu nghị và hòa hợp.
Cố nhiên, tôi muốn có dịp đi tham quan Tê-hê-ran. Và, cơ hội này có lần
đã đến. Các đồng chí trong Đại sứ quán cho biết là không nên mặc quân
phục đi ngoài đường phố Tê-hê-ran. Người ta cho tôi mượn áo khoác và mũ.
Tôi khoác áo ra ngoài quân phục đang mặc, áo thì dài, còn mũ không vừa
đầu, nhưng tôi vẫn cố dùng. Rồi có vẻ như nhà thám tử thực sự, tôi lên xe đi
du ngoạn khắp Tê-hê-ran lúc chiều tối.
Mình không quen nhìn những đường phố chính rực sáng, các biển quảng
cáo đủ màu. Có cảnh tương phản lạ lùng: những cung điện đồ sộ của các bậc
quyền quý, với những vườn cây và công viên lộng lẫy đủ màu sắc, với nhiều
hoa, sóng đôi bên cảnh nghèo khó kinh người tại những vùng ngoại ô thủ
đô, nơi phụ nữ còn mang mạng che mặt và gánh nước kênh bẩn thỉu về
dùng.